Trong xu hướng tiêu dùng bền vững, ngành gỗ được hưởng lợi từ sở thích sử dụng các vật liệu gỗ thay thế cho vật liệu có phát thải cao như kim loại, nhựa, bê tông…
Vật liệu gỗ lên ngôi
Không chỉ được sử dụng nhiều trong sản phẩm nội thất như trước đây, nguyên liệu gỗ còn có cơ hội lớn trong ngành xây dựng với Mass Timber (gỗ cấu kiện lớn). Vật liệu từ gỗ cũng sẽ được dùng nhiều trong ngành năng lượng sinh khối tái tạo (renewable biomass energy), ngành tiêu dùng, bao bì… vì khả năng phát thải thấp, dễ phân hủy và tái chế.
Với khả năng phát thải âm, ngành công nghiệp gỗ, đặc biệt là lâm nghiệp có thể đạt lượng tín chỉ carbon để giao dịch bù đắp cho các ngành công nghiệp khác (tín chỉ carbon là thuật ngữ chung cho tín chỉ có thể kinh doanh hoặc giấy phép đại diện cho 1 tấn carbon dioxide (CO2) hoặc khối lượng của một khí nhà kính khác tương đương với 1 tấn CO2 (tCO2e). Việc mua bán phát thải khí CO2 hay mua bán carbon trên thị trường được thực hiện thông qua tín chỉ). Trong giai đoạn 2010-2020, hàng năm, ngành lâm nghiệp phát thải khoảng 30,5 triệu tCO2e và hấp thụ -69,8 triệu tCO2e.
Thách thức đối với ngành công nghiệp gỗ và ngành lâm nghiệp là phải xây dựng nguồn nguyên liệu đủ và ổn định về khối lượng cả trong nước lẫn nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhóm ngành công nghiệp gỗ, đồng thời bảo đảm mục tiêu bền vững môi trường trong nước và các cam kết quốc tế của Việt Nam. Một thách thức khác là việc xây dựng hạ tầng quản trị nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, doanh nghiệp, người dân có thể tận dụng cơ hội từ thị trường tín chỉ carbon.
Nguồn tín chỉ carbon dồi dào từ rừng
Cơ hội về tín chỉ carbon trong ngành công nghiệp gỗ sẽ đến từ carbon lâm nghiệp. Việt Nam có 14,2 triệu hecta rừng, chiếm 42% diện tích đất nước, trong đó rừng tự nhiên trên 10 triệu héc ta, còn lại là rừng trồng. Ở cả hai khu vực rừng tự nhiên và rừng trồng, nếu quản trị hiệu quả, chứng minh được sự tăng trưởng sinh khối và giảm phát thải thì đây chính là nguồn tín chỉ carbon dồi dào. Vừa qua Việt Nam đã nhận được hơn 41 triệu USD đầu tiên (tương đương với 10,3 triệu tín chỉ carbon) từ Ngân hàng Thế giới (WB) do chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng.
Đặc biệt, Việt Nam còn có cơ hội từ việc trồng rừng cho mục tiêu lấn biển, giữ đất ở khu vực biển phía Nam, Tây Nam từ Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh), Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang… Riêng trong lĩnh vực chế biến gỗ, về cơ bản đây vẫn là ngành phát thải âm, nếu doanh nghiệp xây dựng được hệ thống kiểm đếm phát thải khí nhà kính, hệ thống giúp truy vết dấu chân carbon (carbon footprint) thì khả năng sẽ có thừa tín chỉ carbon để thương mại, có nguồn thu ngoài sản phẩm chính. Những ngành như Mass Timber có nhiều tiềm năng khi sử dụng nhiều gỗ mà phát thải chế biến thấp, chưa kể ngành công nghiệp sử dụng nhiều gỗ sẽ thúc đẩy việc trồng rừng, đặc biệt là trồng rừng gỗ lớn, sinh trưởng nhanh.
Thị trường carbon đang đến gần
Hiện nay Việt Nam đã có Luật Lâm nghiệp, các quy định VNTLAS – Hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp, các Nghị định 102/2020/NĐ-CP quy định hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam, Nghị định 156/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp… Chính phủ cũng đang xây dựng các quy định để tạo hành lang pháp lý cho thị trường tín chỉ carbon. Gần đây nhất là Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định cụ thể lộ trình phát triển, thời điểm triển khai thị trường carbon trong nước. Theo đó, đến hết năm 2027 sẽ xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; Xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon; Triển khai thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong các lĩnh vực tiềm năng và hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước cũng như quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; Thành lập, tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm 2025; Triển khai các hoạt động tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về phát triển thị trường carbon. Từ năm 2028 sẽ vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức.
Thời gian không còn nhiều nữa. Do vậy, bên cạnh hệ thống chính sách pháp luật đầy đủ thì cũng rất cần một cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh hỗ trợ cho thị trường. Cụ thể là cơ sở hạ tầng về dữ liệu lâm nghiệp, nông nghiệp. Cơ chế quản trị cơ sở dữ liệu này sẽ giúp người dân, các tổ chức, doanh nghiệp truy xuất nguồn gốc, xác minh các giao dịch. Bên cạnh đó, chuyển đổi số trong việc thiết lập cơ sở dữ liệu quốc gia về nông – lâm nghiệp và tạo điều kiện cho các nền tảng truy xuất, xác minh, quản trị phát thải khí nhà kính sẽ đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả, giảm chi phí trung gian hành chánh. Từ đó, giúp doanh nghiệp và người dân được hưởng lợi tối đa từ hiệu quả của thị trường tín chỉ carbon.
Trong nhiều năm qua, do đặc thù tài chính của Việt Nam có lãi suất thương mại khá cao, hạn chế người dân, doanh nghiệp trồng rừng gỗ lớn với chu kỳ khai thác dài (thông thường 5~7 năm). Với việc có được sự hỗ trợ của thị trường carbon, Nhà nước, các định chế ngân hàng và bảo hiểm cần vào cuộc để tạo ra cơ chế thúc đẩy trồng rừng gỗ lớn, vừa tạo đầu ra có giá trị gia tăng cao, vừa thêm thu nhập từ tín chỉ carbon.
Nguyễn Quốc Khanh – Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ thành phố Hồ Chí Minh (HAWA)
H.T ghi