Ba trụ cột giảm khí thải nhà kính ở Việt Nam
Theo nhóm nghiên cứu do TS. Nguyễn Hồng Hải – Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng đứng đầu, có 3 trụ cột chính để giảm khí nhà kính ở Việt Nam.
Thứ nhất, cam kết của Việt Nam về giải khí nhà kính, mục tiêu giảm phát thải; Thứ hai, căn cứ vào chiến lược, nhu cầu về xây dựng, đề án xây dựng nhà ở xã hội; Thứ ba, khi chúng ta có mục tiêu, cam kết trong NDC (đóng góp do quốc gia cam kết về ứng phó với khí hậu, bao gồm mục tiêu thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, chính sách và biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm đạt được các mục tiêu của Thỏa thuận Paris), căn cứ vào nhu cầu tiềm năng giảm, tức số lượng nhà giảm, giải pháp thực hiện kế hoạch giảm đó như giảm carbon hàm chứa trong ngành vật liệu và giảm carbon vận hành của công trình.
Đối với Việt Nam, chúng ta luôn luôn cam kết với 2 mục tiêu: Có hỗ trợ từ nước ngoài Việt Nam sẽ giảm được khi nhà kính khoảng 27,7 triệu tấn; Không có cam kết hỗ trợ của nước ngoài mức giảm sẽ là 15,8 triệu tấn. Điều này cho thấy, Việt Nam cần sự hỗ trợ rất nhiều của cộng đồng quốc tế về khoa học công nghệ.
Giảm khí thải nhà kính, cũng gắn liền với mục tiêu về kinh tế, xã hội, căn cứ vào nhu cầu thực tế của xã hội để có thể xây mới, cải tạo đúng đủ từ đó giảm lượng phát thải khí nhà kính. Theo đó, cần những tiêu chuẩn để có thể tính được khí thải nhà kính trong một công trình xây dựng tập trung vào giai đoạn xây dựng và vận hành.
Theo Cục Viễn thám Quốc gia (RSC), nguồn phát thải khí nhà kính trong công trình xây dựng hiện nay chiếm 13% là carbon hàm chứa và 87% carbon trong vận hành. Do đó để giảm phát thải khí nhà kính đến năm 2030, cần phải tập trung vào giảm carbon trong vận hành. Điều này là rất quan trọng để ngành xây dựng định hướng lộ trình giảm khí thải nhà kính.
Bên cạnh đó, việc giảm khí thải nhà kính không chỉ tập trung vào một nhóm đối tượng mà cần phải có sự tham gia của tất cả các bộ phận từ kiến trúc sư, kỹ sư, cơ quan quản lý,… căn cứ theo giai đoạn của một công trình xây dựng là xây dựng, sử dụng, vận hành đến hết vòng đời của công trình từ đó xây dựng những chính sách, quy chuẩn, tiêu chuẩn.
Với đề án xây dựng trên 1 triệu căn nhà ở xã hội cùng nhiệm vụ giảm khí thải nhà kính cần nguồn lực rất lớn về tài chính và công nghệ, với một quốc gia đang phát triển, đây là một thách thức rất lớn. Trước tình thế khó, sự sáng tạo, không ngừng học hỏi càng được đẩy lên cao.
Các nhà nghiên cứu tại Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng đã chia ra làm 3 nhóm giải pháp. Thứ nhất, thiết kế không thay đổi mức đầu tư – phục vụ đối tượng nhà ở xã hội; Thứ hai, chỉ thay đổi 5% tổng mức đầu tư và cuối cùng mới là giải pháp đầu tư công nghệ mới như: bê tông xanh, thép xanh, bê tông hấp thụ carbon hay những công nghệ tái chế rác thải.
Căn cứ vào những nhóm giải pháp trên, cũng cần có những lộ trình cụ thể như từ nay đến năm 2030 áp dụng giải pháp thiết kế không thay đổi mức đầu tư, để giành nguồn lực phát triển công nghệ trong giai đoạn từ năm 2030 đến năm 2050.
Cốt lõi để giảm được tiêu thụ năng lượng, giảm phát thải, chúng ta cần giảm nhu cầu tiêu thụ năng lượng. Do đó, cần tác động từ khâu thiết kế làm sao để công trình tiêu thụ ít năng lượng, sử dụng các loại vật liệu carbon hàm chứa thấp.
Mở rộng công trình xanh tự nguyện
Công cụ để giảm khí nhà kính trong công trình xây dựng, cần có những quy chuẩn, tiêu chuẩn công trình xanh tự nguyện áp dụng trong một nhóm công trình. Thực tế, đối với tiêu chuẩn công trình xanh đến nay Việt Nam mới chỉ áp dụng được từ 2 – 5% (khoảng 430 công trình đạt chứng nhận công trình xanh), các nước tiên tiến có thể áp dụng từ 10 – 20%.
Tuy nhiên, chỉ trong đầu năm 2024, Việt Nam đã có khoảng 5.000.000 m2 sàn được đăng ký chứng nhận về công trình xanh (tăng lên 7%). Đây là sự chuyển dịch rất lớn, thể hiện sự đồng thuận cho một cam kết chuyển đổi xanh.
Có thể thấy, để giảm khí thải nhà kính trong công trình xây dựng cần rất nhiều yếu tố liên quan đến vấn đề kỹ thuật, chính sách, kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đang thiếu rất nhiều quy chuẩn liên quan đến việc tính toán năng lượng cũng như tính toán carbon vòng đời của công trình. Bên cạnh đó sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành cùng các nước trên thế giới sẽ giúp ngành xây dựng cũng như Việt Nam đạt mục tiêu “net zero”.
Duy Trinh