Bài toán thiếu điện ở Việt Nam vẫn nóng bao năm qua và còn nóng hơn trong những ngày hè gay gắt kỷ lục này. Nhiều ý kiến cho rằng, phải cải thiện hiệu quả của điện gió, điện mặt trời (sử dụng năng lượng tái tạo và thân thiện với môi trường) để đảm bảo an ninh năng lượng trong một thế giới nhiều biến động như lúc này.
Thế nhưng, khi điện gió, điện mặt trời (năng lượng sạch) chưa đủ đáp ứng nhu cầu sử dụng và sản xuất, thì việc tìm các nguồn điện bổ sung để đảm bảo bài toán năng lượng là vô cùng cần thiết. Trước các rủi ro của điện than, điện hạt nhân, một số ý kiến nghĩ tới: điện khí tự nhiên LNG có phát thải khí “độc hại” bằng một nửa so với điện than, lại có thể làm lạnh và giảm thể tích của chúng xuống tới 600 lần để vận chuyển trước khi phát ra điện bằng một hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư quy mô bài bản. Bằng chứng là một số quốc gia châu Âu đã chính thức có lộ trình sử dụng điện khí rộng rãi trong thời gian tới, Đông Nam Á cũng nổi lên là thị trường nhập khẩu điện khí tự nhiên LNG tiềm năng nhất châu Á.
Tuy nhiên, cũng có không ít ý kiến vẫn tỏ ra băn khoăn và cảnh báo rủi ro thách thức cần vượt qua khi tính đến bài toán điện khí LNG.
Theo Viện Kinh tế Năng lượng và Phân tích Tài chính (IEEFA), quá nhiều thách thức mà các dự án phải đối mặt, các mốc thời gian mà các nhà đầu tư tham vọng đạt được trong cam kết tiến độ dự án rất khó khả thi. Lý do là bởi các dự án LNG phụ thuộc vào nhiều cấu phần biến động và rủi ro cao và cả những vấn đề về cơ chế chưa theo kịp. Giá điện từ các đơn vị sản xuất điện khí LNG được đánh giá sẽ cao hơn so với mặt bằng ở thị trường Việt Nam. Nếu không có “cơ chế” để Tập đoàn Điện lực Việt Nam (PVN) mua rồi hòa vào lưới điện quốc gia, thì chắc chắn giá cả sẽ là yếu tố vô cùng thách thức đối với các dự án LNG.
Thêm nữa, chi phí biên của điện gió và điện mặt trời ngày càng rẻ, trong khi điện than và điện khí LNG thì không có được tương lai đó. Đặc biệt, khi mà từ các biến động của tình hình thế giới, nhất là cuộc xung đột Nga – Ukraine, giá khí LNG tăng chóng mặt toàn cầu, rồi các cuộc đàm phán bán điện LNG ở Việt Nam còn “chưa đâu vào đâu”.
Bên cạnh khó khăn về việc thuyết phục nhà đầu tư mở hầu bao với số vốn đầu tư khổng lồ, thì (thậm chí) hiện tại, các nhà máy điện khí LNG sẽ phải đầu tư theo phương thức IPP, tức là những nhà máy điện độc lập. Điều này đồng nghĩa với việc họ phải tham gia thị trường điện một cách “sòng phẳng”, chứ không hề có quy định về việc bên mua điện phải bao tiêu sản lượng điện của họ – ngoại trừ một số nhà máy có ràng buộc về điều này.
Để giải bài toán này, trước mắt chúng ta cần có thái độ rõ ràng như một “kim chỉ nam” trong hành động đó là năng lượng tái tạo phải được ưu tiên hàng đầu – đó là thứ quan trọng nhất để đảm bảo cho sự phát triển bền vững, để vừa có an ninh năng lượng, vừa chống biến đổi khí hậu và các hậu quả môi trường thảm khốc khác. Điện than hay điện khí vẫn là sử dụng năng lượng hóa thạch, vẫn phát thải khí nhà kính và đều là nguồn nhiên liệu có thể cạn kiệt và gây hậu quả cho môi trường sống. Cải thiện, mở rộng, nâng cấp, ứng dụng khoa học hiện đại trong phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, đặc biệt năng lượng mặt trời, năng lượng gió – trong đất liền và ngoài khơi xa đại dương tăng cường pin tích trữ điện từ năng lượng tái tạo. Đó là cách tốt nhất để Việt Nam thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Báo cáo gần đây của Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) cũng đã phân tích: Các dự án LNG vẫn phát thải ra một lượng khí nhà kính đáng kể trong toàn bộ quá trình sản xuất. Xem xét toàn bộ vòng đời của các dự án LNG từ khai thác, hóa lỏng và vận chuyển cho đến tái khí hóa và sử dụng, một lượng khí mê-tan (CH4) nhất định sẽ được giải phóng trong mỗi giai đoạn. Xét về khí nhà kính, CH4 có khả năng gây nóng lên toàn cầu cao hơn khoảng 80 lần so với CO2 trong khoảng thời gian 20 năm và cao hơn 28 lần trong khoảng thời gian 100 năm. Do đó, một số nghiên cứu đã nêu lên mối lo ngại về những lợi ích cho giảm thiểu biến đổi khí hậu được cho là đến từ việc chuyển đổi từ than đá sang LNG.
Về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Linh Đan, ĐH Bách Khoa Hà Nội nhấn mạnh khi trao đổi với chúng tôi: “Một trong những xu hướng phát triển năng lượng hiện nay là năng lượng tái tạo chiếm phần đa, đồng thời tăng cường tiết kiệm điện, để tránh lãng phí và tránh phải sử dụng phương pháp sản xuất điện đắt đỏ mà vẫn phát thải khí nhà kính (như điện khí LNG)”.
Chuyên gia năng lượng Ngô Thị Tố Nhiên, Giám đốc Điều hành Sáng kiến Chuyển đổi Năng lượng Việt Nam thì phân tích, điện khí LNG yêu cầu có cơ sở hạ tầng đặc thù cho vận chuyển, tái khí hóa và lưu trữ LNG. Biến động giá LNG nhập khẩu lớn, phụ thuộc vào thị trường quốc tế. Mặc dù LNG có hệ số phát thải CO2 bằng khoảng một nửa so với sản xuất điện than nhưng đây vẫn là nguồn năng lượng hóa thạch có giới hạn và sản xuất điện từ LNG vẫn phát thải CO2 vào khí quyển. Chuỗi cung ứng LNG thường có mức phát thải khí nhà kính cao hơn so với chuỗi cung ứng khí nội địa từ các đường ống dẫn khí.
Trong hội nghị COP26 vào cuối năm 2021, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã cam kết đạt được mục tiêu đưa phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050 và không phát triển thêm dự án điện than từ sau năm 2030. Theo quy hoạch điện VIII, việc đầu tư vào dự án điện than cũng sẽ được giảm dần rồi loại bỏ hoàn toàn vào năm 2050. Năng lượng tái tạo sẽ thay thế nhiên liệu hóa thạch về lâu dài. Với sự góp mặt của thủy điện tích năng, tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cơ cấu năng lượng sẽ tăng từ 26% vào năm 2020 lên tới 67,5 đến 71,5% vào năm 2050.
Cam kết của Việt Nam trước quốc tế về việc đưa phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 đã nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt cả trong và ngoài nước. Muốn đạt được mục tiêu trên, việc chuyển dịch sang những nguồn năng lượng sạch hơn (như điện mặt trời, điện gió, thay vì than đá, dầu hay khí LNG) đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
Cho nên, đã đến lúc chúng ta phải ứng xử “đúng” hơn và ưu tiên đặc biệt hơn nữa cho năng lượng tái tạo, kiên quyết giảm trừ rồi loại bỏ các hình thức phát điện gây tác động xấu cho môi trường. Đó cũng là cách phát triển tương thích với mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam (như đã cam kết). Thêm nữa, do quy luật cung cầu, công nghệ sản xuất điện thân thiện với môi trường ngày càng được hoàn thiện và có tính cạnh tranh cao về giá cả. Chi phí điện gió, điện mặt trời, pin và công nghệ quản lý nhu cầu điện đang giảm xuống rất nhanh, trong khi giá khí LNG tăng vọt do biến động của tình hình thế giới. Khi năng lượng thân thiện hơn lên ngôi, các nhà máy điện khí LNG được cảnh báo sẽ là khối tài sản đóng băng nhiều nghìn tỷ đồng.
Trong bối cảnh kể trên, nhiều chuyên gia cho rằng, cần ưu tiên các công nghệ hoặc phương pháp sản xuất điện thân thiện với môi trường, phát triển và tăng hiệu xuất của điện gió, điện mặt trời; đồng thời tập trung vào quản lý nhu cầu năng lượng, phát triển lưới điện thông minh, nâng cao hiệu quả năng lượng nhằm giảm áp lực lên việc cung cấp công suất bổ sung và hệ thống lưu trữ năng lượng…
Hoàng Quân
Điện khí LNG chứa nhiều yếu tố rủi ro
Nếu sử dụng điện khí LNG, các dự án phải đồng bộ từ hóa lỏng, hóa khí trên bờ. Và phải có trạm hóa khí, có nhà máy tiêu dùng khí đó, các trạm lại phải xây dựng gần cụm cảng nhập khí LNG về. Đây là một thách thức không nhỏ. Chuyện quy hoạch cần có tầm nhìn chiến lược.
Trong khi, các khu vực ở biển Việt Nam rất khó quy hoạch. Cảng nước sâu cũng không phải nhiều, có ở miền Bắc có khu Hạ Long, Bái Tử Long; Bắc trung bộ có cảng nước sâu ở Vũng Áng tỉnh Hà Tĩnh, phía Nam thì có cảng ở khu vực Vũng Tàu… Nhưng vấn đề là mặt bằng trên đất liền để xây dựng cơ sở hạ tầng cho các dự án trên là không dễ “kiếm”. Trạm hóa khí cần sử dụng diện tích đất không nhỏ.
Quy trình nhập khí thiên nhiên hóa lỏng rất chặt chẽ, cũng là một bài toán đầy thách thức. Ví dụ tàu lớn về vùng A thì sân bay gần đó có thể phải đóng cửa, vì nó là một khối “thuốc nổ” đầy nguy cơ và khổng lồ. Cập cảng vào các khu vực đông dân cư cũng vậy, ta cần phải tính đến yêu cầu về sự an toàn. Yếu tố nữa là: các dự án khí LNG nhập khẩu sẽ phải phụ thuộc vào các quốc gia có nguồn cung (bán khí LNG). Cho nên, theo tôi, ở Việt Nam, câu chuyện điện khí LNG cũng có nhiều yếu tố rủi ro.
TS Nguyễn Thành Sơn – Chuyên gia năng lượng, Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam