
Việt Nam sở hữu đường bờ biển dài 3.260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn, chính nhờ lợi thế này, PGS.TS Nguyễn Ngọc Khánh, Nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện Khoa học xã hội vùng trung bộ, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam cho rằng, Việt Nam có nhiều tiềm năng về năng lượng tái tạo, bao gồm thủy triều và năng lượng mặt trời trên biển hoặc trên các đảo, nhưng nổi bật là điện gió:
“Thứ nhất là điện gió, điện gió ven bờ với điện gió ngoài khơi. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, chúng ta có tiềm năng phát triển điện gió ngoài khơi rất lớn. Đặc biệt là các cái tỉnh Nam Trung Bộ, Ninh Thuận, Bình Thuận và các tỉnh phía Nam. Đồng thời, chúng ta có một bản đồ về năng lượng điện gió ngoài khơi ở các cái tỉnh phía Bắc. Chúng ta đã khai thác và đang đưa vào Quy hoạch phát triển điện 8, điện gió ngoài khơi đóng góp một phần rất quan trọng. Chúng ta đang tiến tới là hình thành năng lực nội tại để phát triển điện gió.”
Ngoài ra, theo ông Khánh, nguồn điện mặt trời nổi, sử dụng năng lượng mặt trời trên hồ, trên biển hiện đang có trên mặt hồ Yaly hoặc thuỷ diện trên sông Đồng Nai và đang tiến tới xây dựng hệ thống điện mặt trời nổi ở các vùng ven biển, các đầm phá.
Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá, Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng điện gió lớn, nằm trong top quốc gia khu vực châu Á có tiềm năng điện gió ngoài khơi. Tiềm năng kỹ thuật của điện gió ngoài khơi Việt Nam có thể đạt khoảng 600 GW, trong đó trên 60 GW có thể khai thác hiệu quả về kinh tế vào năm 2050 nếu có chính sách và hạ tầng phù hợp.
Khu vực có tiềm năng điện gió cao nhất là vịnh Bắc Bộ, vùng biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ – nơi có độ sâu phù hợp cho cả turbine gió cố định và nổi. Các tỉnh như Lâm Đồng, Cần Thơ, Cà Mau đang trở thành điểm nóng đầu tư, với hàng loạt dự án được đề xuất bởi các tập đoàn trong và ngoài nước.

Gỡ nút thắt hạ tầng – chính sách để bứt phá năng lượng tái tạo
PGS.TS Chu Hồi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nghề cá Việt Nam phân tích, ưu điểm của năng lượng gió biển của Việt Nam không chỉ lớn về tốc độ, thời gian gió mạnh và gió ổn định. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, việc triển khai các dự án năng lượng tái tạo còn gặp một số khó khăn:
“Quốc hội thông qua Quy hoạch không gian biển Quốc gia và dựa trên đánh giá tiềm năng đã xác định được các khu vực tiềm năng của điện gió ngoài khơi và thực hiện quy hoạch khu vực. Chúng ta tiềm năng lớn, nhưng theo quy hoạch đến năm 2030, chỉ còn có 5-6 năm. Thời gian quá ít, trong khi điện gió phải đầu tư vào vật liệu siêu trọng, suất đầu tư rất lớn, độ an toàn bờ đòi hỏi cao.
Muốn đầu tư các trang trại điện gió ngoài khơi thì phải thuê biển và đầu tư các cảng riêng cho nó ở trong đất liền, phải có bao nhiêu héc-ta tuỳ theo tiền của nhà đầu tư, vì nó là kho bãi cho các thiết bị siêu trường siêu trọng, tàu chở vật liệu ra cũng riêng chuyên biệt”.
Ông Finn Mortensen, CEO của tổ chức State of Green Đan Mạch cho biết, Đan Mạch cũng từng có các nhà máy điện chạy bằng than nhiều năm trước, nhưng nhờ phát triển ngành công nghiệp năng lượng tái tạo, quốc gia này đã đóng cửa các nhà máy điện chạy bằng than. Với những kinh nghiệm và thành công trong chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hoá thạch sang năng lượng tái tạo, ông Finn Mortensen cho rằng, Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm và phát triển.
“Việt Nam có rất nhiều cơ hội phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt nếu nhìn đến tiềm năng về năng lượng gió, năng lượng mặt trời, địa nhiệt. Việt Nam cũng sẽ có nhiều cơ hội tương tự như Đan Mạch để phát triển năng lượng tái tạo. Tại Đan Mạch, chúng tôi thấy rằng, điện được sản xuất từ gió là nguồn năng lượng rẻ nhất, đặc biệt là điện gió trên đất liền, điện gió ngoài khơi sẽ có chi phí đầu tư cao hơn.”

Hiện nay, Việt Nam có 17 dự án điện gió ven bờ đã đi vào vận hành thương mại với tổng công suất đạt hơn 760 MW, chiếm 19% tổng công suất điện gió của cả nước (3.980 MW).
Một số chuyên gia phân tích, các dự án điện gió ngoài khơi thường được phát triển với quy mô và có hệ số công suất tương đương với các nhà máy nhiệt điện nên cần phát triển hệ thống lưới điện và cơ sở hạ tầng tương tự, cũng như cần được kết nối với hệ thống truyền tải điện quốc gia ở cấp điện áp 220 kV hoặc 500 kV. Do vậy, để tháo gỡ khó khăn và phát triển các dự án điện gió ngoài khơi, cần gỡ từ chính sách, trong đó hạn chế sự chậm trễ trong xây dựng và kết nối lưới điện.
Theo Quy hoạch điện 8 điều chỉnh, Việt Nam định hướng phát triển hài hoà giữa nhu cầu trong nước và mở ra cơ hội xuất khẩu năng lượng sang các nước lân cận. Mục tiêu là bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia Thực hiện chuyển đổi năng lượng công bằng; và Phát triển hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tổng thể dựa trên năng lượng tái tạo, năng lượng mới.
Việc khai thác thành công năng lượng tái tạo từ biển không chỉ đảm bảo an ninh năng lượng cho quốc gia, góp phần thực hiện cái cam kết trung hòa cacbon vào 2050 mà còn thúc đẩy một loạt các ngành kinh tế biển khác, bao gồm công nghiệp đóng tàu, chế tạo thiết bị, và hình thành các mô hình trang trại kết hợp giữa điện gió/mặt trời với nuôi trồng thủy sản và du lịch sinh thái. Điều này góp phần giúp Việt Nam thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xanh, bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu trong tương lai.
Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2050 điều chỉnh (gọi tắt là Quy hoạch Điện 8 điều chỉnh) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025. Quy hoạch đặt ra mục tiêu tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo (không bao gồm thủy điện) trong cơ cấu nguồn điện lên khoảng 28 – 36% vào năm 2030 và định hướng đến năm 2050, tỷ lệ này sẽ đạt mức ấn tượng 74 – 75%. Riêng nguồn điện gió trên bờ và gần bờ đến năm 2030 vào khoảng 26.066 – 38.029 MW; điện gió ngoài khơi: 6.000 – 17.032 MW (vận hành giai đoạn 2030 – 2035); điện mặt trời: 46.459 – 73.416 MW.
Hải Hà
