Việt Nam đang đứng trước những yêu cầu phát triển lớn và đối mặt với những thách thức mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu và chuyển dịch năng lượng bền vững. Quy hoạch điện VIII (QHĐ VIII), được phê duyệt tại Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 và sau đó được điều chỉnh tại Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025, đã đặt ra mục tiêu phát triển ngành điện lực với nhu cầu vốn đầu tư nguồn và lưới điện rất lớn.
Đồng thời, Việt Nam cũng cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050, đòi hỏi mức độ thâm nhập của năng lượng tái tạo (NLTT) vào hệ thống điện phải rất cao, đạt 28-36% (không bao gồm thủy điện) vào năm 2030 và được định hướng lên tới 74-75% vào năm 2050.
Do đó, cải cách thị trường điện hơn lúc nào hết cần được tiến hành khẩn trương để làm tiền đề cho sự phát triển bền vững kinh tế – xã hội.
Nền tảng pháp lý vững chắc cho thị trường điện cạnh tranh
Một trong những điều kiện cần thiết để Việt Nam có thể tiến tới thị trường bán lẻ điện cạnh tranh – cấp độ cuối của cải cách thị trường điện – là cần có cơ sở pháp lý đủ mạnh.
Luật Điện lực 2024, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/2/2025, đã tạo bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý cho ngành điện. Phạm vi điều chỉnh của luật này đã bao gồm rõ ràng “thị trường điện cạnh tranh, hoạt động mua bán điện” và cung cấp một nền tảng pháp lý trực tiếp và mạnh mẽ hơn cho việc phát triển các cấp độ thị trường điện.
Luật cũng quy định chi tiết về quy hoạch phát triển điện lực, đầu tư xây dựng dự án, phát triển năng lượng tái tạo và năng lượng mới, giấy phép hoạt động, điều độ hệ thống điện, vận hành thị trường điện quốc gia, và quản lý nhà nước về điện lực.
Luật Điện lực mới cùng với tinh thần của Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật tạo ra sự tương hỗ rõ rệt khi nghị quyết hướng tới tháo gỡ những “điểm nghẽn” do quy định pháp luật vào năm 2025 và hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh vào năm 2028 nhằm đưa môi trường đầu tư của Việt Nam vào nhóm dẫn đầu Đông Nam Á (ASEAN).
Động lực từ kinh tế tư nhân và thu hút vốn đầu tư
QHĐ VIII dự toán nguồn vốn đầu tư khổng lồ cho phát triển nguồn và lưới điện mới, đặc biệt là NLTT với ước tính 136,3 tỉ đô la cho giai đoạn 2026-2030, 130 tỉ cho giai đoạn 2031-2035 và 569,1 tỉ cho giai đoạn 2036-2050. Việc QHĐ VIII đa dạng hóa hình thức đầu tư (Nhà nước, tư nhân, đối tác hợp tác công-tư – PPP…) và khuyến khích mạnh mẽ khu vực tư nhân tham gia hoàn toàn tương thích với quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4-5-2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân – xem đây là một động lực quan trọng của nền kinh tế quốc gia vào năm 2030.
Sự kết hợp giữa QHĐ VIII xác định nhu cầu và định hướng đầu tư, Luật Điện lực 2024 cung cấp khung pháp lý chuyên ngành cho các hoạt động điện lực và Nghị quyết 68 tạo môi trường thuận lợi, bình đẳng cho khu vực tư nhân, là bộ ba chính sách tương hỗ đắc lực. Từ góc nhìn của người viết, việc tiến tới thị trường bán lẻ điện với nhiều đơn vị mua buôn cạnh tranh sẽ giúp nhà đầu tư dễ đạt được thỏa thuận hợp đồng mua bán điện dài hạn hơn, giảm thiểu rủi ro. Đây là điều kiện tiên quyết để xã hội hóa, thu hút đầu tư vào ngành điện.

Hiện đại hóa và hiệu quả vận hành thông qua khoa học, công nghệ và chuyển đổi số
Thị trường điện hiện đại trong tương lai, đặc biệt với tỷ trọng NLTT cao, kém ổn định và sự tham gia của các nguồn linh hoạt, điều khiển được như lưu trữ năng lượng, điện khí và tham gia phía nhu cầu (demand-side participation) đòi hỏi hệ thống vận hành thông minh, hiệu quả, dựa trên công nghệ tiên tiến và dữ liệu lớn. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia cung cấp định hướng chiến lược cho lĩnh vực này.
Nghị quyết 57 đặt mục tiêu Việt Nam thuộc nhóm dẫn đầu ASEAN về năng lực cạnh tranh số, chỉ số phát triển Chính phủ điện tử, và nghiên cứu, phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) vào năm 2030. Nghị quyết nhấn mạnh phát triển hạ tầng số hiện đại, khai thác dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính, thúc đẩy cơ sở dữ liệu lớn và công nghiệp dữ liệu. Điều này hoàn toàn tương thích với yêu cầu xây dựng hệ thống lưới điện thông minh (smart grid) đủ khả năng tích hợp, vận hành an toàn hiệu quả nguồn NLTT quy mô lớn như QHĐ VIII đã đề ra.
Trong vận hành thị trường điện cạnh tranh, việc thu thập, xử lý, phân tích dữ liệu lớn về sản xuất, tiêu thụ, giá cả, kinh doanh, thời tiết, khí hậu… và dự báo chúng chính xác là vô cùng quan trọng. Các nền tảng số, ứng dụng AI và dữ liệu lớn được thúc đẩy theo Nghị quyết 57 sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc xây dựng và vận hành thị trường điện hiệu quả, minh bạch.
Nghị quyết 57 cũng chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và cải cách quản lý nhà nước dựa trên công nghệ. Điều này góp phần giải quyết các điểm yếu, cần tăng cường về năng lực con người và quản trị trong ngành điện, đặc biệt trong thị trường điện. Hơn nữa, việc ứng dụng chuyển đổi số trong thủ tục hành chính theo tinh thần của cả Nghị quyết 66 và 68 sẽ giúp các doanh nghiệp điện lực và nhà đầu tư giảm chi phí tuân thủ, tăng hiệu quả hoạt động.
Sự tương thích với mục tiêu kinh tế – xã hội tổng thể
Công cuộc cải cách thị trường điện không chỉ là vấn đề kỹ thuật hay kinh tế ngành đặc thù, mà còn gắn bó chặt chẽ với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội tổng thể của Việt Nam. Cả ba nghị quyết 66, 57 và 68 đều hướng tới mục tiêu chung là xây dựng Việt Nam thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Việc cải cách thị trường điện theo hướng cạnh tranh, minh bạch sẽ góp phần tối ưu hóa chi phí toàn hệ thống, đảm bảo an ninh cung cấp điện và cung cấp điện với giá hợp lý hơn trong dài hạn. Một hệ thống điện tin cậy, hiệu quả và giá cả hợp lý là yếu tố nền tảng cho mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Với một cơ chế định giá thị trường minh bạch, khách hàng tiêu dùng điện sẽ ít hoài nghi và có thể dễ chấp nhận giá điện do thị trường quyết định để từ đó điều chỉnh nhu cầu tiêu dùng cho phù hợp với túi tiền của mình hơn. Cơ chế thị trường còn giúp khách hàng có động lực sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả, góp phần giảm bớt áp lực đầu tư công suất nguồn, lưới điện mới không cần thiết. Đây là một khía cạnh quan trọng để đảm bảo hiệu quả kinh tế tổng thể cho hệ thống điện, cho nền kinh tế và xã hội.
Ngoài ra, mục tiêu chuyển dịch năng lượng bền vững, giảm phát thải, hướng tới Net Zero vào năm 2050 là một phần không thể thiếu của mô hình phát triển kinh tế xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu. Luật Điện lực 2024 với các quy định chi tiết về phát triển NLTT, năng lượng mới và QHĐ VIII thể hiện sự nhất quán với mục tiêu này.
Sự tương hỗ giữa các chính sách đảm bảo rằng công cuộc phát triển ngành điện và cải cách thị trường điện đang đi đúng hướng, không chỉ đáp ứng nhu cầu năng lượng mà còn đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững, nâng cao đời sống người dân và vị thế quốc gia.
Những thách thức và kiến nghị
Mặc dù các văn kiện chính sách quan trọng này đã tạo ra hành lang pháp lý và định hướng rất tích cực, con đường phía trước vẫn còn nhiều thách thức. Dù thị trường bán buôn điện cạnh tranh (VWEM) đã vận hành nhiều năm từ năm 2019, về bản chất, đây vẫn chỉ là thị trường cạnh tranh về phát điện với một đơn vị mua buôn chủ yếu là EVN. Thiết kế thị trường bán buôn hiện tại đã bộc lộ sự bất cập với tình hình mới có nhu cầu tăng trưởng nhanh và các mục tiêu bền vững môi trường đầy thách thức.
Để thực sự hiện thực hóa tiềm năng từ sự tương hỗ của các chính sách này, Việt Nam cần tập trung vào những điểm mấu chốt sau.
Thứ nhất, thiết kế thị trường điện phù hợp. Cần thiết kế lại thị trường điện để phù hợp với bối cảnh mới của tỷ trọng NLTT cao và nhu cầu phát triển tăng nhanh. Nhiệm vụ này bao gồm xem xét các cơ chế quản lý công suất mới và cấu trúc hợp đồng mua bán điện dài hạn (PPA) phù hợp cho từng loại công nghệ phát điện và nguồn lực linh hoạt. Kinh nghiệm của các nước đi trước như Úc trong việc cải cách thiết kế thị trường để thích ứng với chuyển dịch năng lượng là bài học quý giá.
Thứ hai, cơ cấu quản trị hiệu quả và độc lập. Mặc dù việc tách Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia (AO) ra khỏi EVN thành Công ty Vận hành hệ thống điện và thị trường điện quốc gia (NSMO) thuộc Bộ Công Thương là bước đi đúng hướng để đảm bảo tính độc lập, minh bạch, cần tiếp tục hướng tới xây dựng các cơ quan quản trị thị trường điện khác (như tham mưu chính sách, thiết kế, điều tiết) hoạt động độc lập, có đủ thẩm quyền và nguồn lực.
Thứ ba, phát triển năng lực con người. Cải cách thị trường điện là công cuộc chuyển đổi toàn diện, phức tạp. Cần có chính sách đãi ngộ đặc biệt để thu hút và phát triển đội ngũ lãnh đạo, nhân lực am hiểu sâu sắc về thị trường điện, chuyển đổi năng lượng bền vững cho các cơ quan quản trị ngành điện.
Thứ tư, cấp bách thực hiện cải cách thị trường điện. Việc chậm trễ trong việc thực hiện các quy hoạch điện đã góp phần gây ra những hệ lụy cho an ninh cung cấp điện. Tương tự, việc chậm có các cơ chế thị trường điện phù hợp sẽ gây hệ lụy tiêu cực cho phát triển điện lực, kinh tế – xã hội. Cần xem xét quy định các dự án thuộc chương trình cải cách, phát triển các cơ chế thị trường điện thuộc nhóm dự án phát triển điện lực cấp bách, quan trọng, cần ưu tiên hàng đầu.
Các nghị quyết mới và Luật Điện lực 2024 sẽ thiết lập một khuôn khổ chính sách đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho cải cách thị trường điện, phát triển ngành điện và thúc đẩy kinh tế Việt Nam hướng tới các mục tiêu cao hơn. Tuy nhiên, thành công phụ thuộc vào việc triển khai quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra, đặc biệt là việc xây dựng các cơ chế thị trường phù hợp, cụ thể, khả thi, đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh, thu hút mạnh mẽ nguồn lực tư nhân và tận dụng hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ, chuyển đổi số.
TS. Thái Doãn Hoàng Cầu