1. Đặt vấn đề:
Trong điều kiến nguồn nhiên liệu hóa thạch (than đá, dầu mỏ và khí đốt) đã được khai thác đến mức giới hạn, trữ lượng ngày càng cạn kiện. Sự chuyển đổi năng lượng được thúc đẩy bởi phát triển nhanh nguồn năng lượng tái tạo đã mang lại những thay đổi căn bản về phạm vi và tác động của các nguồn nhiên liệu hóa thạch.
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, đã đề nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo. Quy định các đơn vị điện lực có trách nhiệm mua toàn bộ điện năng được sản xuất từ việc sử dụng các nguồn năng lượng này nối lưới với giá bán điện hỗ trợ (FIT) trong 20 năm đã tạo bước phát triển vượt bậc trong thời gian gần đây. Từ mức công suất không đáng kể vào năm 2018, đến nay tổng công suất nguồn điện mặt trời và điện gió đã chiếm khoảng 30% tổng công suất hệ thống điện quốc gia.
Tuy nhiên, quá trình phát triển năng lượng tái tạo cũng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Các vướng mắc này cần được tháo gỡ để quá trình phát triển năng lượng này được đẩy nhanh hơn nữa, góp phần quan trọng vào quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu trung hòa khí nhà kính vào năm 2050 như cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại COP26.
2. Tiềm năng các nguồn năng lượng tái tạo của Việt Nam:
– Tiềm năng thủy điện: Theo quy hoạch bậc thang thủy điện các dòng sông lớn và quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ tại các địa phương đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt, Việt Nam có thể phát triển 1.542 dự án với tổng công suất khoảng 28.700 MW. Còn khai thác hết, các nhà máy thủy điện của Việt Nam hàng năm có thể sản xuất khoảng 95 – 100 tỷ kWh. Nguồn thủy điện đã đưa vào vận hành có tổng công suất gần 23 nghìn MW, điện năng sản suất hàng năm khoảng 75 – 85 tỷ kWh phụ thuộc vào lượng mưa hàng năm.
– Tiềm năng các nguồn điện gió: Các tỉnh, thành phố ven biển và các tỉnh cao nguyên, cũng như thềm lục địa của Việt Nam có tiềm năng phát triển điện gió. Tổng tiềm năng kỹ thuật khoảng 377 nghìn MW. Trong đó, điện gió trên đất liền khoảng 217 nghìn MW, trên mặt biển khoảng 160 nghìn MW. Hiện đã có khoảng 7.605 MW công suất nguồn điện gió đã hoàn thành. Trong đó, có 4.126 MW đã vào vận hành, còn 62 dự án điện gió với tổng công suất 3.479 MW đã ký hợp đồng mua bán điện với EVN, nhưng do giá FIT hết hạn nên chưa có giá bán điện.
– Tiềm năng các nguồn điện mặt trời: Tổng tiềm năng kỹ thuật điện mặt trời của Việt Nam khoảng 434 nghìn MW. Trong đó, điện mặt trời quy mô lớn mặt đất khoảng 309 nghìn MW, trên mặt nước khoảng 77 nghìn MW, trên mái nhà khoảng 48 nghìn MW. Đến nay tổng công suất nguồn điện mặt trời của Việt Nam là 16.545 MW. Trong đó, có 8.904 MW công suất điện mặt trời tập trung và 7.641 MW điện mặt trời mái nhà.
– Tiềm năng nguồn năng lượng sinh khối: Năng lượng sinh khối là các dạng năng lượng có nguồn gốc từ các chất hữu cơ (gỗ, sản phẩm nông nghiệp, chất thải hữu cơ, chất thải rắn đô thị, tảo và các loài thực vật khác). Tiềm năng nguồn năng lượng sinh khối của Việt Nam hiện nay khoảng 60 triệu TOE (tấn dầu tương đương). Hiện có 310 MW công suất điện sử dụng bã mía tại các nhà máy đường, đang đầu tư 170 MW công suất nguồn điện sử dụng trấu và phụ phẩm của gỗ.
Ngoài ra, hiện có 4 nhà máy sử dụng rác thải đang vận hành với tổng công suất khoảng 100 MW.
3. Các lợi ích và sự cần thiết phát triển nguồn năng lượng tái tạo:
– Góp phần đảm bảo an ninh năng lượng: Từ năm 2015, Việt Nam đã chuyển từ quốc gia xuất khẩu sang nhập khẩu tịnh về năng lượng; nguồn nhiên liệu hóa thạch trong nước (khí thiên nhiên, than đá và dầu mỏ) đã đến mức giới hạn và dần suy giảm; nguồn thủy điện đã khai thác gần hết, chỉ có thể phát triển thêm một số dự án thủy điện nhỏ. Do đó, việc phát triển của nguồn năng lượng tái tạo sẽ góp phần quan trọng trong bảo đảm an năng lượng quốc gia.
– Góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững: Năng lượng tái tạo sẽ góp phần trong tăng trưởng kinh tế bền vững, đặc biệt là ở cấp quốc gia, bằng cách khai thác các nguồn lực địa phương và tạo ra ngành công nghiệp mới và tạo việc làm.
– Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của địa phương: Hệ thống đường giao thông phục vụ cho việc thi công trở thành hệ thống giao thông nông thôn; các dự án năng lượng tái tạo cũng góp phần phát triển kinh tế đa mục tiêu và tăng thu ngân sách cho các địa phương.
– Góp phần bảo vệ môi trường bền vững: Năng lượng tái tạo là một nguồn năng lượng bền vững, không thải ra các chất ô nhiễm gây thiệt hại cho môi trường và có thể được khai thác mà không gây tổn hại đến các hệ sinh thái.
– Góp phần cung cấp năng lượng cho khu vực nông thôn, miền núi và hải đảo; vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn: Phát triển, cung cấp điện và năng lượng sạch cho người dân nông thôn và các vùng khó khăn có tác động đến các vấn đề xã hội quan trọng như tạo việc làm, xóa đói nghèo, bảo đảm công bằng xã hội, phát triển kinh tế cho nông thôn, miền núi.
– Hiệu quả kinh tế – tài chính của các dự án năng lượng tái tạo: Các dự án thủy điện có giá thành sản xuất thấp, góp phần giảm giá bán điện bình quân. Điện năng sản xuất điện từ các nguồn năng lượng tái tạo khác (gió, mặt trời, sinh khối) được áp dụng mức giá bán điện hỗ trợ (giá FIT) do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Trong điều kiện giá nhiên liệu hóa thạch tăng cao, giá điện sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo đã thấp hơn đáng kể so với giá điện sản xuất từ nguồn nhiệt điện.
– Các dự án điện mặt trời: Nhờ chính sách khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời đã có các bước phát triển vượt bậc. Đến nay tổng công suất nguồn điện mặt trời của Việt Nam là 16.545 MW. Trong đó, có 8.904 MW công suất điện mặt trời tập trung và 7.641 MW điện mặt trời mái nhà.
– Các dự án điện gió: Cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam được quy định tại Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ đã đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị đầu tư và đầu tư các dự án điện gió. Hiện đã có 7.605 MW công suất nguồn điện gió đã hoàn thành, trong đó có 4.126 MW đã vào vận hành, còn 62 dự án điện gió với tổng công suất 3.479 MW đã ký hợp đồng mua bán điện với EVN, nhưng do giá FIT hết hạn nên chưa có giá bán điện.
– Các dự án điện sinh khối: Hiện có 310 MW công suất điện sử dụng bã mía tại các nhà máy đường, đang đầu tư 170 MW công suất nguồn điện sử dụng trấu và phụ phẩm của gỗ.
4. Các khó khăn, vướng mắc đối với phát triển năng lượng tái tạo:
– Các vướng mắc về chính sách và các quy định pháp luật hiện hành: Thị trường năng lượng tái tạo cần có các chính sách và thủ tục pháp lý rõ ràng để tăng sự quan tâm của các nhà đầu tư. Các cơ quan quản lý cần đưa ra các chính sách với các điều kiện tạo ra môi trường đầu tư ổn định và có thể dự đoán được, giúp vượt qua các rào cản và đảm bảo dự đoán được dòng doanh thu của các dự án. Tuy nhiên, các cơ chế khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo còn chưa đưa ra được định hướng lâu dài, nhiều chính sách còn bất cập.
Còn thiếu các quy chuẩn, tiêu chuẩn áp dụng cho các công nghệ, điều này cũng gây nhiều khó khăn cho chủ đầu tư các dự án, cũng như cho các cơ quan quản lý nhà nước.
Giá FIT cho các dự án năng lượng tái tạo được áp dụng thống nhất trong cả nước có thể dẫn đến hạn chế nguồn lực cho phát triển. Giá giá FIT cho các dự án được áp dụng chung, không phân biệt quy mô cũng dẫn đến bất cập, các dự án có quy mô lớn sẽ mang lại hiệu quả cao hơn các dự án có quy mô nhỏ hơn nếu có các điều kiện tự nhiên tương tự.
– Về sử dụng đất, các dự án năng lượng tái tạo có các đặc thù: Diện tích đất vẫn có thể canh tác các cây trồng phù hợp (đối với các dự án trên mặt đất), hoặc nuôi trồng thủy sản (đối với các dự án trên mặt nước). Như vậy, các dự án năng lượng tái tạo có thể kết hợp với sản xuất nông nghiệp. Hiện thực hiện dự án vẫn cần thủ tục thu hồi đất như các dự án đầu tư khác, dẫn đến kéo dài thời gian thực hiện, gây nhiều vướng mắc giữa chủ dự án và người nông dân có đất.
– Các khó khăn, vướng mắc về kỹ thuật: Việc phát triển không đồng bộ giữa các dự án năng lượng tái tạo với lưới điện truyền tải dẫn đến quá tải lưới điện; không huy động hết năng lực các nhà máy. Các dự án điện gió, điện mặt trời phụ thuộc vào thời tiết, nên khi được tích hợp vào hệ thống điện với quy mô lớn sẽ gặp nhiều thách thức về kỹ thuật cần được giải quyết. Các số liệu về nguồn năng lượng tái tạo của Việt Nam chưa được xây dựng hoàn thiện, tin cậy làm cơ sở cho phát triển dự án.
– Khó khăn trong thu xếp tài chính: Đầu tư các dự án năng lượng tái tạo có nhu cầu về vốn lớn, rủi ro cao do công suất, sản lượng phụ thuộc thời tiết, khí hậu, khả năng thu hồi vốn lâu do suất đầu tư và giá điện cao hơn nguồn năng lượng truyền thống. Vì vậy, các tổ chức tài chính, ngân hàng thương mại thường chưa sẵn sàng cho vay các dự án đầu tư vào lĩnh vực này.
5. Các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo:
Thứ nhất: Các cơ quan nhà nước đưa ra các định hướng, chính sách với các điều kiện tạo ra môi trường đầu tư ổn định:
– Trên cơ sở chuẩn xác lại tiến độ các dự án nguồn điện lớn đang xây dựng, cần tiến hành cân bằng công suất – điện năng, xác định khối lượng các dự án điện mặt trời, điện gió và các nguồn năng lượng tái tạo cần xây dựng trong giai đoạn 2023 – 2025 – 2030. Việc cân đối được tiến hành theo từng vùng, miền để xác định công suất mỗi loại cần đưa vào trong từng năm của mỗi vùng, miền.
– Trên cơ sở danh sách các dự án cần đưa vào vận hành mỗi năm, trên cơ sở khung giá phát điện đối với mỗi loại nguồn năng lượng tái tạo (điện mặt trời mặt đất, điện mặt trời nổi, điện gió trên đất liền, điện gió ngoài khơi…) do Bộ Công Thương ban hành, Tập đoàn Điện lực Việt Nam tiến hành đàm phán và ký hợp đồng mua bán điện đối với từng dự án.
– Đối với các dự án có quy mô công suất nhỏ (điện mặt trời mái nhà, điện bãi rác, điện khí sinh học và các dự án có công suất nhỏ khác) được áp dụng theo biểu giá điện hỗ trợ (FIT) do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hàng năm đối với mỗi loại công nghệ, tương ứng với các quy mô công suất khác nhau và theo từng vùng kinh thái khác nhau.
– Đối với các dự án điện gió, điện mặt trời chuyển tiếp (các dự án, hoặc phần dự án đã triển khai trên thực tế, nhưng không kịp thời hạn được hưởng giá FIT). EVN thực hiện đàm phán, ký hợp đồng mua bán điện trên cơ sở khung giá phát điện do Bộ Công Thương ban hành. Trong thời gian chờ tính toán khung giá phát điện, đàm phán và ký hợp đồng mua bán điện, đề nghị Bộ Công Thương báo cáo Thủ tướng Chính phủ ban hành giá điện tạm tính, cho phép EVN huy động các nhà máy điện chuyển tiếp và thanh toán tiền điện theo mức giá bán điện tạm tính. Doanh thu bán điện của các dự án sẽ được điều chỉnh lại theo giá bán điện chính thức.
Thứ hai: Đề xuất cơ chế sử dụng đất cho phát triển: Đối với các dự án kết hợp phát triển năng lượng tái tạo với sản xuất nông nghiệp. Chủ đầu tư không phải thực hiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Chủ đầu tư các dự án thuê đất của các hộ nông dân để thực hiện dự án, giá thuê đất được điều chỉnh theo thỏa thuận của 2 bên, hoặc các hộ nông dân góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án.
Thứ ba: Đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của các dự án biến đổi (điện gió, điện mặt trời):
Để quản lý hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo biến đổi quy mô lớn, tính linh hoạt phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của hệ thống năng lượng, từ phát điện đến hệ thống truyền tải và phân phối, lưu trữ (cả điện, nhiệt) và phía cầu. Đề nghị nghiên cứu, áp dụng các giải pháp sau:
– Giải pháp phía nguồn cung: Nâng cao độ chính xác của công tác dự báo thời tiết, kết hợp phát triển các nguồn điện linh hoạt để thích ứng với sự biến đổi (thủy điện, thủy điện tích năng, tua bin khí đơn…).
– Giải pháp phía truyền tải: Thực hiện liên kết lưới điện với các nước trong khu vực; bảo đảm sự cân đối giữa nguồn năng lượng tái tạo và nhu cầu trong phạm vi lớn với lưới điện truyền tải mạnh; phát triển hệ thống lưu trữ năng lượng quy mô lớn và đầu tư phát triển, cải tạo hệ thống lưới truyền tải.
– Giải pháp phía cầu: Tập hợp các nguồn điện đấu nối với lưới phân phối cho các đơn vị điện lực địa phương; thực hiện quản lý phía cầu; tối ưu hóa vận hành hệ thống phân phối với các nguồn năng lượng phân tán.
– Giải pháp lưu trữ toàn hệ thống: Phát triển hệ thống lưu trữ năng lượng quy mô lớn; giải pháp tự động chuyển đổi điện năng dư thừa cho các nhu cầu khác – vận tải (xạc pin), hóa chất…
6. Năng lượng tái tạo trong việc thực hiện mục tiêu trung hòa khí nhà kính đến năm 2050:
Quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam:
Chiến lược phát triển năng lượng của Việt Nam xác định đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Trong đó, có việc tăng cường độc lập về năng lượng, ưu tiên phát triển nguồn năng lượng nội địa, hạn chế phụ thuộc vào nguồn năng lượng nhập khẩu là mục tiêu hàng đầu, nhằm giảm thiểu rủi ro từ các đường cung cấp năng lượng nhập khẩu dễ bị tổn thương và giá cả biến động. Phát triển năng lượng tái tạo, kết hợp với sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, đã tạo thành lợi thế hàng đầu của quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam.
Ba khía cạnh chính đặc trưng và làm nền tảng cho quá trình chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam trong giai đoạn tới là: Hiệu quả năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo và điện khí hóa. Trong đó, năng lượng tái tạo sẽ nổi lên như một nguồn năng lượng được phát triển nhanh nhất. Dự kiến đến năm 2050, nguồn năng lượng tái tạo sẽ cung cấp 80 – 90% nhu cầu năng lượng toàn quốc.
Những xu hướng sau cho phép thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo:
– Giảm chi phí: Thủy điện của Việt Nam hiện có chi phí thấp nhất trong các nguồn điện. Các công nghệ điện mặt trời, gió cũng đã đạt được lợi thế cạnh tranh do tiến bộ công nghệ và tăng cường đầu tư. Giá điện mặt trời và điện gió hiện đã thấp hơn nhiều so với nguồn nhiệt điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Dự kiến các nguồn năng lượng tái tạo sẽ tiếp tục giảm chi phí đáng kể trong những thập kỷ tới, trong khi chi phí của nguồn nhiệt điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch có xu hướng tăng do giá nhiên liệu tăng và các yêu cầu về bảo vệ môi trường ngày càng khắt khe.
– Ô nhiễm và biến đổi khí hậu: Các vấn đề do nhiên liệu hóa thạch gây ra, bao gồm ô nhiễm không khí và biến đổi khí hậu trên diện rộng, đã khiến Chính phủ, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người dân nhận thấy sự cần thiết phải giảm phát thải khí nhà kính trong nền kinh tế.
– Mục tiêu năng lượng tái tạo: Với hiệu quả về môi trường và cả về kinh tế, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu tăng nhanh tỷ lệ nguồn năng lượng tái tạo trong cân đối năng lượng chung. Tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng tiêu thụ năng lượng sơ cấp tăng từ 31% vào năm 2020 lên đạt khoảng 80% – 90% vào năm 2050 (kịch bản theo cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại COP26).
– Tiến bộ khoa học kỹ thuật: Những đổi mới công nghệ, tiến bộ công nghệ cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc đẩy nhanh việc triển khai năng lượng tái tạo trong ngành điện. Công nghệ lưu trữ năng lượng đang được phát triển rất nhanh, góp phần quan trọng trong việc ổn định hệ thống điện có các nguồn năng lượng tái tạo biến đổi chiếm tỷ lệ cao.
Năng lượng tái tạo trong mục tiêu trung hòa khí nhà kính (KNK) vào năm 2050:
Kịch bán phát thải KNK đến năm 2050: Năm 2014 (năm Việt Nam có kiểm kê về phát thải KNK), Việt Nam phát thải khoảng 300 triệu tấn CO2. Trong đó, năng lượng lớn nhất 53%, nông nghiệp 28%, công nghiệp 12%, chất thải 6 – 7%. Chất thu CO2 duy nhất là cây trồng, hấp thụ 40 triệu tấn CO2. Như vậy, năm 2014 Việt Nam phát thải ròng 260 triệu tấn CO2.
Để đạt mục tiêu trung hòa khí nhà kính vào năm 2050 cần tăng hấp thụ, giảm phát thải:
– Hấp thụ KNK cao nhất của Việt Nam vào năm 2050 có thể đạt cao nhất khoảng 150 – 200 triệu tấn CO2 khi kết hợp sản xuất nông lâm nghiệp.
– Về phát thải KNK từ chất thải: Năm 2014 phát thải trên 21 triệu tấn CO2, năm 2050 cần thu gom và xử lý chất thải 100% nhằm đạt 2 mục tiêu: Giảm phát thải do chất thải và tăng nguồn năng lượng tái tạo (công nghệ Biogas, đốt thu hồi năng lượng, phân hữu cơ…). Thu hồi hết có thể sản xuất khoảng 15 tỷ kWh.
– Sản xuất nông nghiệp: Năm 2014 phát thải khoảng 90 triệu tấn CO2, quá trình chuyển đổi sản xuất (giảm sản xuất lúa nước), ước tính đến năm 2050 phát thải 50 triệu tấn CO2.
– Sản xuất công nghiệp: Năm 2014 phát thải 39 triệu tấn. Hiện nay khoảng 60 – 80 triệu tấn, đến năm 2050, với việc đầu tư và áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến trong sản xuất công nghiệp, phát thải CO2 giảm xuống còn khoảng 50 triệu tấn.
– Ngành năng lượng: Năm 2014 phát thải 172 triệu tấn. Năm 2050, để thực hiện mục tiêu trung hòa KNK, ngành năng lượng phải giảm phát thải khoảng còn khoảng 50 – 100 triệu tấn CO2. Như vậy, đến năm 2050, nguồn điện không phát thải (năng lượng tái tạo, điện hạt nhân, thu giữ CO2…) chiếm khoảng 80% – 90% sản lượng điện sản xuất, nguồn điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch chỉ còn 10% – 20%.
Các chiến lược giảm phát thải:
– Năng lượng sử dụng cuối cùng: Hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong lĩnh vực nhà ở, phương tiện giao thông và các mục đích sử dụng khác.
– Sử dụng lăng lượng hiệu quả và linh hoạt: Sử dụng năng lượng hiệu quả và linh hoạt để đảm bảo hiệu quả chi phí trong giảm nhẹ phát thải KNK.
– Cung cấp năng lượng không phát thải: Tạo nguồn cung cấp năng lượng không phát thải và phát thải thấp.
– Lưu giữ các-bon: Cân bằng lượng phải thải còn lại bằng cách thúc đẩy hấp thụ CO2.
7. Định hướng phát triển nguồn năng lượng tái tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050:
– Phát triển nguồn thủy điện: Tiếp tục phát triển các nguồn thủy điện nhỏ đáp ứng các điều kiện môi trường và mở rộng, tăng công suất các nhà máy thủy điện hiện có nhằm tăng tính linh hoạt và phủ đỉnh của hệ thống. Đưa tổng công suất thủy điện từ khoảng 23.000 MW hiện nay lên đến khoảng 29.000 MW vào năm 2030, khoảng 36.000 MW vào năm 2050. Phát triển các nhà máy thủy điện tích năng để làm nhiệm vụ lưu trữ năng lượng cho hệ thống điện quốc gia; đưa tổng công suất thủy điện tích năng lên khoảng 3.600 MW vào năm 2030; khoảng 40.000 MW vào năm 2050.
– Phát triển nguồn điện mặt trời: Đây là nguồn điện có giá rẻ nhất trong các loại nguồn điện sẽ được phát triển trong thời gian tới nên cần được ưu tiên phát triển. Ưu tiên phát triển điện mặt trời mái nhà (ĐMTMN) để tăng khả năng tự cung cấp điện cho các hộ gia đình. Dự kiến đến năm 2030, khoảng 20% số hộ gia đình có nguồn ĐMTMN với tổng công suất 25.000 MW; đến năm 2050, có khoảng 50% số hộ gia đình có nguồn ĐMTMN với tổng công suất 80.000 MW.
Phát triển nguồn điện mặt trời tập trung, phân bố đều ở các vùng, miền để hạn chế việc truyền tải điện đi xa. Phát triển mô hình các làng, xã được cung cấp 100% từ nguồn điện tái tạo, trong đó điện mặt trời chiếm khoảng 45% – 50%. Tổng công suất điện mặt trời tập trung tăng từ 8.900 MW hiện nay lên khoảng 30.000 MW vào năm 2030 và khoảng 170.000 MW vào năm 2050.
– Phát triển nguồn điện gió: Điện gió có số giờ vận hành cao và ổn định hơn nguồn điện mặt trời, với thời gian xây dựng nhanh, giá cạnh tranh, các dự án điện gió cũng cần được ưu tiên phát triển nhanh:
Đối với điện gió trên bờ và gần bờ: Được phát triển chủ yếu cấp cho nhu cầu điện tại địa phương. Tổng công suất điện gió loại này dự kiến tăng từ 8.900 MW hiện nay lên khoảng 14.000 MW vào năm 2030 và khoảng 66.000 MW vào năm 2050.
Đối với điện gió ngoài khơi: Được phát triển một phần được truyền tải vào bờ qua đường dây để cung cấp cho nhu cầu điện. Phần lớn điện năng sản xuất được dùng để điện phân, sản xuất hydro xanh, từ đó được đưa vào các đường ống dẫn khí hiện có để bổ sung cho nguồn khí đốt tự nhiên bị suy giảm. Hydro xanh sản xuất từ điện gió cũng được sử dụng để tổng hợp Amoniac để từ đó cung cấp cho các nguồn điện linh hoạt; các nhu cầu khó chuyển sang sử dụng điện, như: Luyện thép, nhôm, làm vật liệu xây dựng, vận tải hàng hóa lớn, đường dài… Ngoài ra, còn được xuất khẩu mang lại nội tệ cho đất nước. Tổng công suất điện ngoài khơi dự kiến đạt khoảng 20.000 MW vào năm 2030 và khoảng 100.000 MW vào năm 2050.
– Phát triển năng lượng sinh khối: Nhằm giải quyết ô nhiễm và phát thải khí nhà kính từ rác thải; tận dụng nguồn phụ phẩm nông nghiệp, công nghiệp và từ trồng rừng. Ngoài ra, sinh khối cũng được sử dụng để đốt kèm trong các nhà máy nhiệt điện than. Tổng công suất nguồn điện sinh khối tăng từ khoảng 600 MW hiện nay lên đạt khoảng 7.500 MW vào năm 2030 và khoảng 15.000 MW vào năm 2050./.
Nguyễn Văn Vy – Phó chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam