Theo dự luật, chính phủ sẽ chỉ định các khu vực có thể thu hồi và lưu trữ CO2, sau đó cấp phép cho một số dự án để đưa công nghệ thu hồi và lưu trữ CO2 vào ứng dụng thực tế. Các doanh nghiệp nhận được giấy phép sẽ được cấp “quyền khoan thăm dò” tại các khu vực được chỉ định để kiểm tra cấu thành, kết cấu địa chất, xác định mức độ phù hợp trước khi triển khai lưu trữ CO2.
Bên cạnh đó, dự luật cũng quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu, người điều hành doanh nghiệp được cấp giấy phép sử dụng sử dụng công nghệ CCS. Theo đó, những người này sẽ có nghĩa vụ kiểm tra, giám sát khả năng rò rỉ CO2 ra ngoài. Trong trường hợp xảy ra rò rỉ, dù cố ý hay sơ suất và tùy mức độ thiệt hại, đều phải chịu trách nhiệm bồi thường, thậm chí chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Quá trình thu hồi CO2 được gọi là CCS, tách và thu CO2 phát ra từ các nhà máy và lưu trữ vĩnh viễn sâu trong lòng đất như tầng sâu ngậm nước mặn; các bể dầu, khí đã khai thác kiệt; các lớp nền muối hoặc hang động; hoặc các lớp than không thể khai thác. Ngoài lưu trữ vĩnh viễn, CO2 cũng có thể được sử dụng cho mục đích thương mại như một phần của chuỗi giá trị.
Hiện nay, Chính phủ Nhật Bản đang đặt mục tiêu tới năm 2030 sẽ lưu trữ tối đa 12 triệu tấn CO2 dưới lòng đất, tương đương với 1% lượng khí thải CO2 hàng năm của nước này. Ngoài phương án thu hồi và lưu trữ CO2, Nhật Bản đang có kế hoạch mở rộng các cơ sở năng lượng gió ngoài khơi tới vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) nhằm đẩy mạnh nỗ lực trung hòa carbon và đảm bảo an ninh năng lượng.
(VOV)