
“Manh nha” xanh, nhưng không dễ!
Tại hội thảo “Doanh nghiệp chuyển đổi xanh và giải pháp thúc đẩy tiếp cận tài chính xanh bền vững” diễn ra mới đây ở thành phố Cần Thơ, ông Trần Hoàng Tuyên, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA), cho biết hiện đã có một số mô hình tiên phong chuyển đổi sang hướng sản xuất xanh quy mô nhỏ ở ĐBSCL.
Một số cái tên đáng chú ý như nhóm dược trà của dược sĩ Đoàn Thị Hồng Thắm ở Cần Thơ; Công ty Thái Minh Nguyên (An Giang) với sản phẩm trà từ thảo dược trồng theo phương pháp an toàn, bền vững. Ngoài ra, còn có chị Nguyễn Thị Kim Thoa, Giám đốc Abavina, người phát triển mô hình sản xuất thuận thiên, gắn kết cộng đồng nông nghiệp; hay anh Lâm Quốc Nhật ở Cà Mau, người nghiên cứu tài nguyên bản địa, biến cây ô rô thành muối và nước uống có dược tính cao…
Theo ông Tuyên, các mô hình này đều dựa trên hệ sinh thái tự nhiên, hướng tới nông nghiệp tái tạo- một giá trị cốt lõi của sản xuất xanh. “Nông nghiệp tái tạo trở thành giá trị trung tâm giúp họ vận hành mô hình bền vững”, ông nhấn mạnh.
Tuy nhiên, để triển khai các dự án xanh, tuần hoàn theo khung tiêu chuẩn môi trường- xã hội- quản trị (ESG) không hề đơn giản. Vĩnh Long là ví dụ điển hình: dù có diện tích dừa lớn nhất cả nước và sớm xác lập chuẩn ESG để tham gia, nhưng quá trình thực hành lại gặp không ít khó khăn.
Về môi trường, doanh nghiệp phải đáp ứng bốn tiêu chí: (1) sản xuất thân thiện môi trường; (2) tối ưu hóa sử dụng nước và năng lượng; (3) giảm khí thải, chất thải; và (4) bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. “Tất cả đều có chỉ số cụ thể, không thể nói chung chung về ESG”, ông Tuyên lưu ý.
Về xã hội, tiêu chuẩn gồm: (1) tạo việc làm bền vững, an toàn; (2) tôn trọng quyền con người; (3) hỗ trợ cộng đồng địa phương; và (4) đảm bảo công bằng trong chuỗi cung ứng. Trong khi đó, về quản trị, yêu cầu: (1) minh bạch tài chính- thông tin; (2) tuân thủ pháp luật và đạo đức kinh doanh; (3) quản trị rủi ro; và (4) giám sát hiệu quả.
Theo ông Nguyễn Thanh Bình đến từ Tổ chức Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên tại Việt Nam (WWF Việt Nam), nhiều doanh nghiệp có dự án tốt cho môi trường, giúp giảm tác động hoặc thích ứng với biến đổi khí hậu, nhưng lại chưa chứng minh được mức đóng góp cụ thể. “Doanh nghiệp nói làm ESG, nhưng tài liệu và báo cáo lại để lộ lỗ hổng ở chính mảng đó”, ông dẫn chứng.
Bà Võ Thị Thu Hương, Phó giám đốc VCCI ĐBSCL, cho rằng một trong những rào cản lớn khiến doanh nghiệp khó xanh hóa là hiệu quả đầu tư thấp. Chỉ số ICOR (chỉ số hiệu quả đầu tư) của ĐBSCL thuộc nhóm thấp nhất cả nước- tức lượng vốn cần bỏ ra để tạo ra một đơn vị tăng trưởng ở khu vực này rất cao.
Theo bà Hương, nguyên nhân là do phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, thiếu đầu tư cho công nghệ và đào tạo lao động chuyên môn. “Tiếp cận vốn xanh khó khăn cũng là một lý do đáng kể”, bà nói.
Dự án nhỏ khó lấy vốn xanh
Vốn được xem là đòn bẩy quan trọng cho các dự án sản xuất xanh, đặc biệt là mô hình quy mô nhỏ. Thế nhưng, tiếp cận nguồn vốn xanh của các đơn vị này lại vô cùng khó khăn.
Bà Hương của VCCI ĐBSCL, cho biết niềm tin của doanh nghiệp vào thủ tục tín dụng đang giảm sút khi tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá thủ tục vay “thuận lợi” giảm từ 85% xuống còn 65% hay nói cách khác tỷ lệ cho rằng “khó khăn” tăng từ 15% lên 35% trong vài năm gần đây.
Riêng với tín dụng xanh, thách thức còn lớn hơn bởi: (1) nhiều doanh nghiệp chưa đủ năng lực minh bạch tài chính, gây khó khăn trong thẩm định; và (2) đặc thù ngành nông nghiệp mang tính thời vụ, rủi ro cao.
Ông Bình của WWF Việt Nam cho biết, Quỹ Khí hậu và Phát triển Hà Lan (DFCD- Dutch Climate -KIC Fund) của Chính phủ Hà Lan, thành lập năm 2019, đang ưu tiên hỗ trợ các dự án chuyển đổi xanh và giảm tác động biến đổi khí hậu, nhất là ở ĐBSCL. “Khi doanh nghiệp muốn tiếp cận Quỹ DFCD, họ thông qua đối tác là WWF Việt Nam hoặc SNV (Tổ chức Phát triển Hà Lan)”, ông nói.
Sau khi đáp ứng đủ điều kiện, doanh nghiệp sẽ được viện trợ không hoàn lại khoảng 300.000 euro để triển khai mô hình thí điểm trước khi bước vào giai đoạn vay vốn đầu tư. “Khoản viện trợ này giúp doanh nghiệp hoàn thiện mô hình kinh doanh”, ông Bình nói, đồng thời cho biết doanh nghiệp vẫn phải có vốn đối ứng để đầu tư hạ tầng, máy móc, thiết bị…
Tuy nhiên, để bước sang giai đoạn vốn vay, Quỹ DFCD yêu cầu khoản vay tín chấp tối thiểu 5 triệu euro (khoảng 150 tỉ đồng) và tổng tài sản doanh nghiệp phải đạt ít nhất 10 triệu euro. “Họ cho vay tín chấp nên xem kỹ năng lực tài chính trong vài năm gần nhất”, ông Bình cho biết.
Với quy định nêu trên, rõ ràng doanh nghiệp quy mô nhỏ, hợp tác xã vốn là đặc trưng của ĐBSCL rất khó tiếp cận nguồn vốn xanh để mở rộng chuyển đổi.
Được biết, Công ty cổ phần Tập đoàn Minh Phú- “vua tôm” Việt Nam- sau giai đoạn thí điểm mô hình tôm- lúa tại ĐBSCL, đã không tiến tới giai đoạn mở rộng bằng vốn vay DFCD. “Minh Phú hoàn thành thử nghiệm nhưng do biến động thị trường xuất nhập khẩu tôm 2022–2023, họ chọn dùng vốn tự có để mở rộng thay vì vay DFCD”, ông Bình thông tin.
TS Nguyễn Thành Tâm đến từ Viện Mekong (Đại học Cần Thơ), đề xuất nên có chính sách hỗ trợ riêng cho hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ, bởi với những quy định khắt khe như của Quỹ DFCD, rất khó để họ tiếp cận được nguồn vốn xanh…
Trung Chánh