Phát triển bền vững đòi hỏi gắn phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế, bao gồm nhân lực, vật lực và tài lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi bao trùm để Việt Nam có thể tiếp tục tham gia vào hoạt động thương mại, đầu tư toàn cầu, tích hợp quá trình sản xuất và tiêu dùng bền vững vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tiếp cận thị trường và sử dụng các công cụ kinh tế linh hoạt dựa trên các thành tựu phát triển tiên tiến nhất về kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số thay cho quản lý hành chính cứng nhắc, hạn chế, phòng tránh hình sự hóa là cơ sở để Việt Nam có thể chuyển từ xã hội truyền thống sang giai đoạn chuẩn bị cất cánh để cất cánh theo mô hình tăng trưởng kinh tế Rostow tới giai đoạn công nghiệp hiện đại, hình thành các trung tâm đô thị thông minh sầm uất, hướng tới xã hội hiện đại hậu công nghiệp trong tương lai.
Thế giới đang đối mặt với ba cuộc khủng hoảng: biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và suy giảm đa dạng sinh học. Các nhà đầu tư toàn cầu ngày càng quan tâm đến việc đầu tư vào các tài sản có tác động tích cực đến môi trường, nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn tự nguyện và bắt buộc về môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Việt Nam đã cam kết thực hiện Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2030, với tầm nhìn đến năm 2050, trong bối cảnh quốc tế đang gia tăng các yêu cầu về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Việt Nam cam kết xây dựng một nền kinh tế xanh, tuần hoàn, đảm bảo an ninh tài nguyên nước, phát triển nông nghiệp bền vững; đồng thời, gia tăng khả năng chống chịu của các hệ sinh thái và xã hội trước những tác động tiêu cực của thiên tai và biến đổi khí hậu.
Chiến lược đặt ra đến năm 2030 sẽ tập trung vào việc giảm thiểu tình trạng suy thoái tài nguyên nước và đất, đảm bảo nguồn nước phục vụ các ngành kinh tế quan trọng, và chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng thông minh với biến đổi khí hậu. Độ che phủ rừng được duy trì ở mức ít nhất 42%, trong khi diện tích khu bảo tồn thiên nhiên trên cạn và biển sẽ tiếp tục được mở rộng. Đến năm 2050, mục tiêu quản lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và đảm bảo mọi người dân có quyền tiếp cận nước sạch, an toàn, cùng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, sẽ được thực hiện một cách toàn diện.
Chuyển đổi xanh, số, bao trùm để phát triển bền vững
Chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi bao trùm là nền tảng để nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy nguồn nhân lực xanh, vật lực xanh và tài lực xanh nhằm phát triển bền vững, thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam tại COP26.
Chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi bao trùm cho phép quản lý tài nguyên từ tâm trái đất tới hết tầng khí quyển. Quản lý tài nguyên quốc gia dựa trên dữ liệu không gian (spatial data), dựa trên nền địa lý quốc gia, hạ tầng dữ liệu không gian quốc gia NSDI (National Spatial Data Infrastructure) và nền địa chính quốc gia NDCD (National Digital Cadatral Database).
Mọi nguồn tài nguyên quốc gia đều được lưu trữ đặc tính theo cơ sở dữ liệu truyền thống và tọa độ theo cơ sở dữ liệu không gian GIS. Chiến lược phát triển bền vững quốc gia cần được lập, thực hiện, kiểm tra, thanh tra, giám sát và hoàn thiện dựa trên thống kê, kiểm kê, hạch toán, kiểm toán theo phương pháp quản lý tổng hợp cảnh quan sử dụng đất tích hợp, ứng dụng công nghệ bản đồ chuyên đề đa lớp vào quản lý nguồn lực quốc gia.
Ứng dụng công nghệ bản đồ chuyên đề đa lớp cho phép quản lý không gian phát triển kinh tế- xã hội, bảo vệ môi trường theo bản đồ sử dụng đất tích hợp, bao gồm bản đồ lập, thực hiện, tiến độ triển khai dự án, kiểm tra, giám sát, quyết toán và điều chỉnh quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông, cảng, cửa khẩu, trạm thu phí, định vị phương tiện vận tải công cộng; hạ tầng truyền thông, thông tin; hạ tầng du lịch; hạ tầng y tế, giáo dục, cơ sở văn hóa, thể thao; kiểm soát môi trường, đa dạng sinh học, ứng phó biến đổi khí hậu; quản lý chất thải; hạ tầng tài chính, kho bạc, ngân hàng và các tổ chức tín dụng; quản lý tài sản công; quản lý địa chính, mã số bưu điện; người dùng dịch vụ công.
Công nghệ bản đồ chuyên đề đa lớp được xây dựng dựa trên cơ sở khai thác các công nghệ chuyển đổi số đã phổ biến trên thế giới hiện nay, như: ứng dụng dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI) và học máy (machine learning), công nghệ đám mây (Cloud), công nghệ chuỗi khối (Blockchain). Người dân được thực hiện thủ tục hành chính và truy cập số liệu yêu cầu công khai theo quy định trên cơ sở định danh cá nhân.
Việt Nam đã tham gia một số Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, trong đó nổi bật là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), với các yêu cầu về phát triển bền vững, bao trùm.
Phát triển bền vững, bao trùm là luật chơi mới trong thương mại và đầu tư, là yêu cầu bắt buộc để tuân thủ các cam kết khí hậu, môi trường, đa dạng sinh học, thương mại và đầu tư, là điều kiện để Việt Nam có thể tích hợp sâu, rộng vào hệ thống lương thực, năng lượng, tài chính, thương mại, đầu tư, chuỗi cung ứng toàn cầu.
Luật chơi mới và các cam kết khí hậu
Từ tháng 1/2023, Chỉ thị Báo cáo phi tài chính (NFRD) có hiệu lực, yêu cầu các công ty lớn công khai thông tin về tác động của hoạt động kinh doanh của họ đến môi trường. Chỉ thị Báo cáo bền vững doanh nghiệp (CSRD) mở rộng yêu cầu báo cáo bền vững đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ niêm yết trên sàn chứng khoán. Chỉ thị Thẩm định bền vững doanh nghiệp (CSDDD) yêu cầu các doanh nghiệp phải giám sát và báo cáo các rủi ro bền vững trong chuỗi cung ứng của mình.
Quy định chống phá rừng của Liên minh châu Âu (EUDR) yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm vào EU cần đảm bảo rằng các sản phẩm của họ không có nguồn gốc từ việc phá rừng sau ngày 31/12/2020. Theo Cơ chế điều chỉnh biên giới Carbon (CBAM), doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm như sắt thép, xi măng, nhôm và phân bón vào EU phải đo lường, báo cáo lượng phát thải carbon từ ngày 1/10/2023, và mua tín chỉ carbon để bù đắp phát thải từ năm 2026.
Các đối tác thương mại lớn của Việt Nam đã ban hành chính sách về giảm phát thải để thực hiện các cam kết về mục tiêu khí hậu. Liên minh châu Âu (EU) đã triển khai Cơ chế thương mại phát thải (ETS) nhằm giảm 55% lượng phát thải so với năm 1990 vào năm 2030 và mở rộng khung chính sách carbon vào năm 2040, hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng không vào năm 2050.
Hoa Kỳ đặt mục tiêu giảm 50-52% phát thải so với năm 2005 vào năm 2030 thông qua chương trình giảm phát thải quốc gia và sẽ tăng cường áp dụng công nghệ năng lượng sạch vào năm 2040, với tham vọng đạt phát thải ròng bằng không vào năm 2050.
Trung Quốc, với cơ chế thương mại carbon, dự kiến đạt đỉnh phát thải vào năm 2030 và giảm 60-65% cường độ phát thải so với năm 2005 vào năm 2040, nhằm đạt được phát thải ròng bằng không vào năm 2060.
Vương quốc Anh cam kết giảm 68% phát thải so với năm 1990 vào năm 2030 và đang đầu tư mạnh mẽ vào năng lượng tái tạo và hạ tầng bền vững, với mục tiêu đạt phát thải ròng bằng không vào năm 2050.
Canada đặt mục tiêu giảm 40-45% phát thải so với năm 2005 vào năm 2030 thông qua chương trình thuế carbon và tăng cường phát triển công nghệ năng lượng tái tạo để đạt phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Nhật Bản, với kế hoạch hành động khí hậu, sẽ giảm 26% phát thải so với năm 2013 vào năm 2030 và tập trung vào nâng cao năng lực năng lượng tái tạo để hướng tới phát thải ròng bằng không vào năm 2050.
Bối cảnh toàn cầu hiện nay cho thấy yêu cầu ứng phó biến đổi khí hậu trở thành xu hướng không thể đảo ngược, tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực.
Với những mục tiêu cụ thể, Việt Nam hướng tới giảm phát thải khí nhà kính và đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Đây không chỉ là nhiệm vụ bắt buộc với phát triển bền vững, mà còn là cơ hội thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường, nâng cao khả năng cạnh tranh, phù hợp với các yêu cầu của Thỏa thuận Paris và xu thế toàn cầu sau Hội nghị COP26.
Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời, năng lượng gió và sinh khối. Sự phát triển của năng lượng tái tạo giúp giảm phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới biến đổi khí hậu. Năng lượng tái tạo không chỉ cung cấp nguồn năng lượng bền vững mà còn giảm thiểu lượng phát thải khí nhà kính, đóng góp vào nỗ lực toàn cầu chống biến đổi khí hậu.
Để thúc đẩy tăng trưởng xanh, chuyển đổi số, phát triển xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu, Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định, chiến lược quan trọng.
Quyết sách quan trọng cho chuyển đổi xanh, chuyển đổi số
Ngày 1/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1658/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 nhằm thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng khả năng cạnh tranh và chống chịu trước các cú sốc bên ngoài.
Chính phủ cũng đã ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050, tại Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022, thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc ứng phó với những thách thức to lớn do biến đổi khí hậu gây ra.
Quyết định số 215/QĐ-TTg ngày 01/3/2024 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đề ra những mục tiêu quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững.
Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện 8) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đẩy mạnh các dự án năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió và thủy điện nhỏ, đồng thời giảm dần sự phụ thuộc vào các dự án điện than và khí, nhằm hạn chế phát thải khí nhà kính và các tác động tiêu cực đến môi trường.
Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đặt ra tầm nhìn cho Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, đồng thời xác định các mục tiêu phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.
Nhân lực xanh đóng vai trò then chốt trong chuyển đổi sang nền kinh tế thân thiện môi trường, với việc tập trung vào các ngành công nghiệp như năng lượng tái tạo, xử lý chất thải, nông nghiệp bền vững và sản xuất sạch. Lực lượng lao động cần được trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết để ứng dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đồng thời phát triển các ngành công nghiệp mới có giá trị gia tăng cao và góp phần giảm phát thải khí nhà kính.
Bên cạnh đó, chuyển đổi số đang mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam. Nhân lực trong lĩnh vực này cần phải có trình độ chuyên môn cao về công nghệ thông tin, dữ liệu, trí tuệ nhân tạo (AI) và các công nghệ mới nổi khác; có hiểu biết sâu rộng về các chính sách xã hội và pháp luật, đặc biệt liên quan đến bình đẳng giới, quyền lao động và môi trường làm việc an toàn.
Thách thức hiện nay là đảm bảo lực lượng lao động có thể thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của thị trường lao động, giúp quốc gia không chỉ theo kịp mà còn dẫn đầu trong chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi bao trùm.
Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề khan hiếm và ô nhiễm nguồn nước ngày càng tăng do tác động của biến đổi khí hậu, đô thị hóa và tăng trưởng dân số. Đầu tư hạ tầng xanh là yếu tố quan trọng trong xây dựng các công trình thân thiện môi trường như các tòa nhà tiết kiệm năng lượng, hệ thống giao thông công cộng hiện đại giảm thiểu khí thải, các cơ sở hạ tầng xử lý nước thải, chất thải hiệu quả, tạo điều kiện cải thiện chất lượng môi trường, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xanh, kinh tế số thông qua tạo ra nhiều việc làm mới và khuyến khích sự phát triển của các ngành công nghiệp xanh.
Quản lý nước theo phương pháp tiếp cận tổng hợp, cảnh quan tập trung vào việc sử dụng các công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý bền vững để bảo tồn nguồn nước và cải thiện chất lượng nước trên cơ sở xây dựng các hệ thống tái sử dụng nước, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, đồng thời bảo vệ các hệ sinh thái nước ngọt là rất quan trọng.
Huy động các nguồn lực cho chuyển đổi bao trùm
Việt Nam đã đưa ra các chính sách nhằm quản lý chặt chẽ việc khai thác và sử dụng nước ngầm, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, cộng đồng địa phương tham gia các chương trình bảo vệ nguồn nước, phát triển các công trình hạ tầng như hồ chứa, đập nước, các hệ thống phân phối nước bền vững.
Hạ tầng xử lý nước thải tập trung, tuần hoàn, phát thải thấp là một phần không thể thiếu trong chiến lược quản lý nước thải hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
Các biện pháp giảm phát thải trong xử lý nước thải như tối ưu hóa quy trình xử lý sinh học, cải tiến công nghệ xử lý để giảm lượng nitơ và phốt pho trong nước thải, sử dụng hệ thống yếm khí kết hợp với các biện pháp thu hồi và tái sử dụng khí methane làm nguồn năng lượng, sẽ giúp chuyển đổi khí thải thành nguồn năng lượng sạch phục vụ nhà máy.
Tuy nhiên, thách thức lớn đối với Việt Nam hiện nay là huy động nguồn vốn đủ lớn để đào tạo nguồn nhân lực xanh, triển khai các dự án hạ tầng xanh trên quy mô toàn quốc, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế đang chịu nhiều áp lực từ phát triển nhanh và các vấn đề môi trường đang trở nên nghiêm trọng.
Cơ hội huy động tài chính khí hậu và tài chính xanh từ các tổ chức quốc tế, quỹ đầu tư, hệ thống tài chính, các công ty đa quốc gia và các đối tác phát triển cho chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam đang mở ra những tiềm năng lớn nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững, đạt được các mục tiêu về giảm thiểu phát thải.
Những nguồn vốn này được dành riêng cho các dự án có mục tiêu rõ ràng về giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và nước, đồng thời thúc đẩy các giải pháp công nghệ số trong quản lý tài nguyên.
Các quỹ khí hậu toàn cầu như Quỹ Khí hậu Xanh (GCF) và Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) đang mở ra cơ hội tài trợ, hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam trong việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng xanh, năng lượng tái tạo và các dự án về quản lý nước bền vững. Các quỹ đầu tư có thể cung cấp nguồn tài chính dồi dào cho các dự án xanh, giúp hiện thực hóa các sáng kiến bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Hệ thống tài chính, thông qua việc cung cấp các sản phẩm trái phiếu xanh và tín dụng xanh, có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong triển khai các giải pháp công nghệ sạch. Các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là trong các ngành liên quan đến năng lượng, công nghệ và hạ tầng, có thể tiếp cận nguồn vốn này thông qua việc đáp ứng các tiêu chuẩn về phát triển bền vững và minh bạch môi trường.
Phát hành trái phiếu xanh đã được thực hiện thành công tại nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng có tiềm năng áp dụng mô hình này để huy động vốn cho các dự án chuyển đổi số kết hợp với bảo vệ tài nguyên nước, giảm ô nhiễm và phát thải carbon.
Việc tích hợp tài chính xanh vào chiến lược phát triển kinh tế sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho các ngành nghề có thể áp dụng các mô hình sản xuất bền vững, giảm thiểu phát thải và tối ưu hóa tài nguyên.
Để huy động nguồn lực tài chính xanh, Chính phủ Việt Nam cần xây dựng danh mục phân loại xanh, danh mục này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy khung pháp lý và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường tài chính xanh, bao gồm việc phát triển cơ sở hạ tầng tài chính kỹ thuật số, hệ thống giám sát và đánh giá môi trường, nhằm nâng cao sự minh bạch và trách nhiệm xã hội trong việc sử dụng tài chính khí hậu.
Cách tốt nhất để huy động và khai thác nguồn lực đất nước là dựa trên thiết kế xây dựng thể chế và tạo ra cơ chế khuyến khích tài chính để lợi ích cá nhân trùng với lợi ích quốc gia. Trong khu vực tư nhân, mô hình trả lương theo kết quả công việc là nền tảng để xây dựng một cơ chế làm việc tự giác.
Trong quản lý tài chính, ngân sách, Chính phủ điều tiết bất bình đẳng thu nhập thông qua thuế, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân qua hệ thống dịch vụ công hiệu quả. Thực hiện quản lý ngân sách theo kết quả để tạo động lực cho người dân và doanh nghiệp phát triển.
Chuyển đổi số là công cụ thiết yếu
Cần ứng dụng chuyển đổi số để thay đổi cách thức và nâng cao hiệu quả ngân sách nhà nước. Chuyển đối số cho phép quản lý ngân sách nhà nước theo không gian dựa trên cơ sở bản đồ chuyên đề đa lớp để xác định khu vực thiếu hụt về trường học, bệnh viện, hạ tầng giao thông, văn hóa, thể thao…thì được ưu tiên phân bổ ngân sách, ưu tiên nguồn lực, tài chính, đầu tư dựa trên cơ sở số liệu thống kê, kiểm kê, hạch toán theo không gian.
Chuyển đổi số, sử dụng mã định danh cá nhân thống nhất theo Luật Căn cước công dân là bước đi đầu tiên để người dân dùng dịch vụ công thống nhất cho các dịch vụ như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, mã số thuế, quản lý nhân khẩu, y bạ điện tử, mã số học sinh, mã số công chức, tài khoản ngân hàng, để thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước…
Trong kỷ nguyên xanh và số, tài sản giá trị nhất là người dùng. Cần phát triển mã số định danh cá nhân để tạo sự thống nhất cho người dùng dịch vụ công, phát triển hệ sinh thái số và mạng xã hội Việt Nam nhằm khai thác nguồn lực của dân số trăm triệu người ở Việt Nam.
Chuyển đổi số không chỉ là một xu hướng mà còn là một công cụ thiết yếu trong việc thực hiện chuyển đổi xanh và phát triển bền vững, bao trùm. Qua việc áp dụng công nghệ số, các tổ chức và doanh nghiệp có thể tối ưu hóa quy trình sản xuất, quản lý tài nguyên hiệu quả hơn và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Chuyển đổi số còn thúc đẩy việc tạo ra các sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường, hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững và tạo ra giá trị xã hội.
Bằng cách kết hợp giữa công nghệ và các chiến lược phát triển bền vững, Việt Nam có thể xây dựng một tương lai xanh hơn, đồng thời đảm bảo tính công bằng và bao trùm cho mọi thành phần trong xã hội…
PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ – Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường
Nguyễn Khánh Tâm – Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường