
Tham gia cuộc chơi tự cường về năng lực xanh
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh từ sau công cuộc Đổi Mới vào năm 1986, thúc đẩy thu nhập của doanh nghiệp lẫn người dân đi lên. Ở những thời kỳ đầu, công cuộc tăng trưởng đặt nặng câu chuyện quy mô về con số, từ sản lượng, đầu tư cho đến công nghiệp hóa. Tuy nhiên, trong gần một thập kỷ qua, vấn đề chuyển đổi xanh lại được nhắc đến nhiều hơn, như là một yếu tố quan trọng góp phần thay đổi mô hình tăng trưởng trong dài hạn.
Trong hành trình tăng trưởng, dấu mốc của chuyển đổi xanh và thay đổi tư duy tăng trưởng bền vững là vào năm 1993 với Luật Bảo vệ Môi trường đầu tiên được ban hành, đến năm 2003 Việt Nam có Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia lần đầu tiên.
Năm 2012, Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, lần đầu đưa ra mục tiêu xanh hóa toàn diện, như đề cập đến giảm phát thải khí nhà kính, xanh hóa sản xuất, đầu tư hạ tầng xanh. Tuy nhiên, dấu mốc quan trọng là vào năm 2021, Việt Nam cam kết đạt mức phát thải ròng bằng không (Net Zero) vào năm 2050 tại Hội nghị COP26. Ngay sau đó, Chính phủ cũng ban hành Chiến lược Tăng trưởng xanh giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn 2050.
Đầu tháng 7 vừa qua, Chính phủ vừa ban hành Quyết định 21, quy định danh mục phân loại xanh, bao gồm 45 lĩnh vực, loại hình dự án thuộc 7 nhóm ngành. Khung này thiết lập tiêu chí môi trường thống nhất để xác định các dự án đủ điều kiện tiếp cận nguồn vốn xanh, bao gồm cả tín dụng và trái phiếu. Trước đó, Ngân hàng Nhà nước cũng đã công bố Sổ tay hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro về môi trường – xã hội (ESMS) phối hợp biên soạn cùng IFC, đóng vai trò như một “cẩm nang thực hành” cho các tổ chức tín dụng.
Trong thời gian gần đây, Việt Nam rất chủ động trong việc chuyển đổi xanh. Không chỉ ráo riết chuẩn bị cho chu kỳ tăng trưởng cao gắn liền với “xanh” về khung chiến lược, những bước đi gần đây cho thấy Việt Nam cũng đang khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý, chẳng hạn như vận hành thị trường carbon trong nước vào năm 2028.
Sự tự chủ về tăng trưởng xanh cũng gắn liền với Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 hay còn gọi là Quy hoạch điện VIII. Theo đó, Việt Nam định hướng chuyển đổi mạnh mẽ sang nguồn năng lượng tái tạo ngoài thủy điện và loại bỏ dần điện than.
Công cuộc chuyển đổi xanh cũng đang khơi dậy nội lực sáng tạo của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Đồng thời, hội nhập kinh tế nhiều hơn đòi hỏi tư duy cũng phải đi theo hướng bền vững xu hướng của toàn cầu, sản phẩm đạt chuẩn quốc tế để xuất khẩu. Thực tế trong thời gian qua, nhiều ngành nghề đã thực hiện chuyển đổi xanh với mục tiêu tăng trưởng bền vững.
Chẳng hạn, ngành dệt may, thủy sản xuất khẩu vốn phải đạt nhiều chứng chỉ về môi trường liên quan hay các lĩnh vực năng lượng tái tạo như điện gió điện mặt trời. Các trang trại bò sữa, các cánh đồng lúa ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cũng đưa mục tiêu phát thải thấp vào chương trình hành động. Tại các thành phố lớn như TPHCM, Hà Nội, quá trình điện khí hóa các phương tiện giao thông công cộng cũng đang được đẩy mạnh và sắp tới đây có thể là các phương tiện giao thông cá nhân.
Hành trình “tự cường” về năng lực xanh của Việt Nam cũng đã bắt đầu. Hiện các các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản ngày càng siết chặt các tiêu chuẩn về môi trường và phát thải. Chẳng hạn, cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU sẽ đánh thuế carbon lên các mặt hàng nhập khẩu như sắt thép, xi măng, phân bón… Hàng hóa chịu thuế cao hơn đòi hỏi cú hích các doanh nghiệp phải thay đổi theo.
Chủ động chuyển đổi xanh
“Xanh hóa” không còn được tính là chi phí mà là khoản đầu tư quan trọng với các doanh nghiệp Việt Nam để tăng trưởng trong thời gian tới, gắn liền nhiều hơn với định nghĩa bền vững. Một trong số yếu tố quan trọng thúc đẩy chuyển đổi xanh là vốn. Ngân hàng Thế giới ước tính, Việt Nam sẽ cần một khoản đầu tư lên tới 368 tỉ đô la Mỹ cho đến năm 2040 để xây dựng một lộ trình phát triển vừa chống chịu với biến đổi khí hậu, vừa đạt được mục tiêu Net Zero. Trong vòng 10 năm tới, theo chuyên gia của IFC – thành viên của Nhóm Ngân hàng Thế giới, Việt Nam cần huy động hàng trăm tỉ đô la, trong đó khu vực tư nhân sẽ đóng vai trò dẫn đầu.
Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến ngày 31/3/2025, đã có 58 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh. Quy mô dư nợ đạt 704.244 tỉ đồng, tăng 3,57% so với cuối năm 2024, chiếm tỷ trọng 4,3% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Danh mục cho vay chủ yếu thuộc các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm hơn 37%) và nông nghiệp xanh (trên 29%). Trên thị trường vốn, năm 2024 chứng kiến sự sôi động trở lại với tổng giá trị phát hành mới của trái phiếu xanh, xã hội và bền vững đạt gần 6.900 tỉ đồng, chiếm khoảng 2% lượng phát hành mới từ đầu năm. Trong giai đoạn 2016-2023, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,1 tỉ đô la Mỹ. Đây là một con số lớn nhưng nhìn chung vẫn còn khiêm tốn, chưa kể tỷ trọng dư nợ xanh dù chưa được cải thiện nhiều.
Thêm một thông tin đáng quan tâm là tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh bình quân giai đoạn 2017-2024 lại cao hơn nhiều so với tín dụng chung của nền kinh tế (21,2%/năm). Có thể nói, nhu cầu “vay xanh” đang tăng dần trong bối cảnh thị trường xem xét các yếu tố môi trường – xã hội – quản trị (ESG) ngày càng gay gắt hơn.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều chướng ngại phía trước trên chặng đường chuyển đổi xanh. Nhiều chuyên gia đánh giá, khó khăn chuyển đổi xanh không chỉ là nhu cầu vốn dài hạn tài trợ mà còn thiếu sự đồng bộ chính sách, khung pháp lý và nguồn nhân lực chất lượng cao hay nhận thức của lãnh đạo về tăng trưởng bền vững.
Bà Đinh Thị Quỳnh Vân, Chủ tịch Công ty kiểm toán và tư vấn PwC Việt Nam, cho biết nhiều dự án, đặc biệt là hạ tầng sẽ gặp khó khăn khi vay vốn nếu thiếu các báo cáo tuân thủ, trình bày rõ ràng về cách xử lý chất thải hay năng lượng. Vì vậy, tài trợ cho điện than sẽ vô cùng khó khăn nhưng điểm tích cực là các định chế tài chính sẵn sàng hỗ trợ mạnh mẽ cho năng lượng sạch, hay các dự án ứng dụng công nghệ bền vững.
Để đẩy mạnh xu hướng đầu tư bền vững, thu hút dòng vốn vào ngày càng nhiều hơn thì cần giải quyết bài toán này. Thậm chí, doanh nghiệp triển khai thực tế sẽ đạt được kết quả thương mại, tốc độ tăng trưởng, lợi nhuận và giá trị cổ phiếu tốt hơn. Những giá trị này có thể thấy được ngay trong thời gian ngắn.
“Xu hướng này đã bắt đầu, các nhà đầu tư nhìn về lợi nhuận hơn là nói về chi phí. Đối với các khoản vay dài hạn, phát triển bền vững là cam kết cần thiết”, bà Vân chia sẻ tại một tọa đàm gần đây.
Một điểm tích cực khác là Nhà nước sẽ có cơ chế hỗ trợ lãi suất và khuyến khích các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho doanh nghiệp tư nhân vay để triển khai các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn ESG, theo Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Các chính sách hỗ trợ mới được kỳ vọng sẽ sớm triển khai.
Theo kết quả “Nghiên cứu Triển vọng Doanh nghiệp năm 2025” của UOB (Singapore), các doanh nghiệp cũng đang tập trung đầu tư vào hai trụ cột chiến lược chính là số hóa và phát triển bền vững, với lần lượt 61% và 56% doanh nghiệp Việt Nam cho biết sẽ đẩy mạnh các nỗ lực trong hai lĩnh vực này. “Nếu như số hóa được kỳ vọng sẽ nâng cao hiệu quả vận hành và cải thiện trải nghiệm khách hàng thì việc thực hành phát triển bền vững sẽ giúp doanh nghiệp thu hút nhà đầu tư và củng cố uy tín thương hiệu”, báo cáo đánh giá.
Trong bối cảnh thương mại toàn cầu vẫn còn nhiều yếu tố bất định do tác động của thuế quan, Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa tăng trưởng mới với nhiều quy định, chính sách liên quan đến “xanh” ở thị trường nội địa và thế giới sắp có hiệu lực. Có thể nói, hành trình từ Đổi Mới năm 1986 đến cam kết Net Zero 2050 là một sự tiếp nối tất yếu, là cơ hội để Việt Nam thực hiện cuộc tái cấu trúc sâu rộng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, dù rất phức tạp và sẽ tốn kém.
Dũng Nguyễn