Phát biểu tại Hội thảo, ông Bill Possiel – Giám đốc bảo tồn của WWF Việt Nam cho biết: Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để giảm phát thải khí nhà kính và nhận được sự ủng hộ và đánh giá cao của cộng đồng quốc tế, như cam kết đưa phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 tại COP26.
Việt Nam cũng đã cập nhât kết quả về Đóng góp quốc gia tự nguyện (NDC) tại COP27, trong đó tăng mức giảm phát thải khí nhà kính từ 9% lên 15,8% với nguồn lực của quốc gia và từ 27% lên 43,5% với sự hỗ trợ quốc tế. Để đạt được những mục tiêu này, điều quan trọng đối với Việt Nam là đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.
Báo cáo “Tầm nhìn ngành năng lượng Việt Nam: Hướng tới 100% năng lượng tái tạo vào năm 2050” được xây dựng trong khuôn khổ dự án “Đối tác đa bên hướng tới 100% năng lượng tái tạo góp phần thực hiện NDC (100% RE MAP). Báo cáo đã xây dựng 3 kịch bản phát triển cho ngành năng lượng của Việt Nam đến năm 2050, bao gồm: Kịch bản phát triển thông thường (BAU), kịch bản 80% năng lượng tái tạo (80RE) và kịch bản 100% năng lượng tái tạo (100RE).
Theo kịch bản BAU, tiêu thụ năng lượng dự kiến sẽ tăng từ 65 lên 244 triệu tấn dầu tương đương đến năm 2050. Tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế vẫn còn sử dụng nhiên liệu hóa thạch (74%). Ngành Giao thông vận tải tăng trưởng từ 6 đến 7 lần so với mức hiện tại nhưng giống như tất cả các lĩnh vực khác, sẽ vẫn phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch. Tỷ trọng nhiệt điện trong phát điện giảm từ 60% xuống 42%, và các nguồn năng lượng tái tạo khi đó sẽ được khai thác để bù vào mức giảm của nhiệt điện. Trong cơ cấu của nhiệt điện, khí đốt sẽ thay thế than để trở thành công nghệ phát điện chủ đạo do không có nguồn nhiệt điện than mới nào được đưa vào hệ thống từ năm 2037 trở đi và 15 GW trong số các nhà máy than hiện có sẽ ngừng hoạt động.
Trong kịch bản 100RE, mức tiêu thụ năng lượng tăng lên 223 triệu tấn dầu tương đương vào năm 2050, thấp hơn 8% so với kịch bản BAU, nhờ đạt được mức hiệu suất năng lượng cao hơn ở tất cả các các ngành tiêu thụ. Tất cả các lĩnh vực chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo thông qua kết hợp giữa điện khí hóa và chuyển đổi sang nhiên liệu tái tạo. Trong hệ thống điện, 100% điện năng được sản xuất từ các nguồn tái tạo thay thế cho than và khí đốt. Quy mô công suất điện mặt trời và điện gió được mở rộng và được đảm bảo dự phòng bằng các hệ thống pin lưu trữ có dung lượng cao. Năng lực truyền tải của lưới điện cao hơn tới 8 lần so với trong kịch bản BAU.
Kịch bản 80RE có các xu hướng phát triển tương tự với kịch bản 100RE, ngoài điểm khác biệt là cho phép duy trì khoảng 20% mức tiêu thụ năng lượng từ nguồn hóa thạch vào năm 2050. Với tỷ lệ về hiệu quả năng lượng chỉ thấp hơn một chút so với kịch bản 100RE, mức tiêu thụ vào năm 2050 tăng lên 229 triệu tấn dầu tương đương, thấp hơn 6% so với kịch bản BAU. Có 52 GW công suất phát điện bằng khí đốt sẽ vẫn duy trì hoạt động trong hệ thống điện cùng với 9 GW than. Tỷ lệ năng lượng tái tạo trong sản xuất điện tăng lên 86%. Công suất truyền tải điện trong kịch bản này cao gấp 6 lần so với trong kịch bản BAU.
Tổng yêu cầu đầu tư năng lượng cho toàn nền kinh tế cao nhất đối với kịch bản BAU ở mức 5.133 tỷ USD, thấp nhất ở kịch bản 80RE là 3.817 tỷ USD (thấp hơn 26% so với kịch bản BAU), tiếp đó là kịch bản 100RE với mức tổng đầu tư là 4.089 tỷ USD (thấp hơn 20% so với kịch bản BAU). Kịch bản 80RE có mức đầu tư thấp nhất vì tránh chi phí chuyển đổi năng lượng ở một số lĩnh vực đòi hỏi chi phí chuyển đổi cao; các lĩnh vực này chỉ thực hiện chuyển đổi thành 100% năng lượng tái tạo trong kịch bản 100RE.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu, báo cáo đã đưa ra các đề xuất chính sách nhằm khuyến khích và tích hợp năng lượng tái tạo vào hệ thống điện, tạo cơ chế ưu đãi để áp dụng các giải pháp về năng lượng tái tạo và tăng cường khả năng vận hành linh hoạt các nguồn điện, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và khuyến khích áp dụng xe điện và các loại hình vận tải chạy bằng nhiên liệu tái tạo.
Hoàng Ngân