Theo Nghiên cứu Chỉ số Net Zero các nền kinh tế năm 2022 của PwC vừa công bố, Châu Á Thái Bình Dương vượt trội hơn so với các khu vực khác trên toàn cầu trong năm 2021 với tỷ lệ giảm phát thải carbon là 1,2% so với 0,5%, trong nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính từ tăng trưởng kinh tế mặc dù đang đối mặt với nhiều trở ngại.
Nghiên cứu cho thấy khu vực Châu Á Thái Bình Dương đạt tỷ lệ giảm phát thải khí carbon trung bình 1,2% vào năm 2021. Điều này cho thấy lượng khí thải CO2 liên quan đến năng lượng trên một đơn vị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) được tạo ra đang giảm. Trong khi đó, nỗ lực giảm phát thải carbon của thế giới là 0,5%, một khoảng cách lớn so với tỷ lệ giảm phát thải carbon 15,2% cần thiết để hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C so với mức thời kỳ tiền công nghiệp.
Các nhà nghiên cứu Chỉ số Net Zero đã theo dõi tiến độ của các quốc gia trong việc giảm lượng khí thải CO2 liên quan đến năng lượng và giảm phát thải khí carbon tại quốc gia đó. Nghiên cứu đo lường mức độ tiêu thụ năng lượng so với GDP và hàm lượng carbon của năng lượng đó. Nghiên cứu cho thấy 9 trong số 13 nền kinh tế Châu Á Thái Bình Dương đã giảm phát thải carbon vào năm 2021, tuy nhiên, chỉ có hai nền kinh tế – New Zealand và Việt Nam – vượt qua mục tiêu giảm phát thải khí carbon dựa trên mục tiêu đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC). New Zealand giảm cường độ carbon nhiều nhất ở mức 6,7% vào năm 2021, tiếp theo là Malaysia (4,0%), Việt Nam (3,4%) và Australia (3,3%).
Các mục tiêu cấp toàn cầu và cấp quốc gia cần được chuyển hóa vào chính sách. Kết quả tích cực từ các chính phủ Châu Á Thái Bình Dương đó là một số chính sách đã được thực thi. Tuy nhiên, để duy trì mục tiêu 1,5°C, chính phủ các nước trong khu vực này cần phải có những chính sách mang tính chất quyết định, bao gồm kết hợp các mục tiêu năng lượng tái tạo với các kế hoạch loại bỏ dần sử dụng than đá; thúc đẩy sử dụng năng lượng hiệu quả với chính sách điện khí hóa; tích hợp chính sách định giá carbon kết hợp với đổi mới, cũng như mở rộng quy mô công nghệ sạch và đảm bảo quá trình chuyển đổi hợp lý.
Có tiến triển (màu cam)
Các nền kinh tế có các nỗ lực phù hợp với mục tiêu của mình: Úc, Trung Quốc, Malaysia, New Zealand và Hàn Quốc và có thể bao gồm Thái Lan. Các quốc gia này đã cho thấy sự tiến bộ đáng khích lệ về hướng đi và tốc độ. Hầu hết các quốc gia vẫn tạo ra nhiều khí thải carbon, nhưng đang duy trì động lực phát triển đầy hứa hẹn.
Chậm trễ trong tiến độ (màu hồng)
Một số nền kinh tế chưa có các hoạt động nhất quán và chậm trễ trong quá trình giảm phát thải carbon trong thập kỷ vừa qua: Ấn Độ, Indonesia và Nhật Bản. Với tham vọng và quyết tâm rõ ràng hơn, các quốc gia này có khả năng điều chỉnh lại đúng hướng.
Phụ thuộc vào than đá (màu nâu)
Một số nền kinh tế đang vẫn còn ở khá xa đích đến: Bangladesh, Philippines, Pakistan và Việt Nam. Các nền kinh tế đang phát triển này bắt đầu với cường độ carbon tương đối thấp. Sự phát triển kinh tế của các nước này trong thập kỷ qua được thúc đẩy một phần bởi than đá và đây là những rủi ro lớn nhất khi quốc gia bị mắc kẹt giữa tài nguyên cạn kiệt và biến đổi khí hậu.
Trong khi các nhà hoạch định chính sách đang chịu áp lực để đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng với mức giá hợp lý, vẫn còn đó cơ hội kinh doanh dành cho các khoản đầu tư vào net zero nhờ nguồn lực đổi mới. Sự tăng giá năng lượng và khủng hoảng nguồn cung đã tạo nên xu hướng đổ xô vào nhiên liệu hóa thạch trong ngắn hạn; nhưng đồng thời cũng tăng cường cơ hội đầu tư cho năng lượng tái tạo trong dài hạn. Tương tự, các động lực kinh doanh về hiệu quả năng lượng đã tăng lên, đặc biệt trong các lĩnh vực tiêu thụ nhiều năng lượng và các ngành công nghiệp khó giảm thiểu năng lượng tiêu thụ. Các doanh nghiệp sẽ tìm cách tiêu thụ năng lượng ít hơn, sử dụng năng lượng hiệu quả hơn, báo hiệu một bước ngoặt trong cách chúng ta suy nghĩ về năng lượng.
Các nhà nghiên cứu Chỉ số Net Zero cho biết, câu chuyện giảm thải carbon đang chuyển từ tham vọng sang hành động. Tuy nhiên, theo báo cáo năm nay, những tồn tại cần được ghi nhận và giải quyết tại COP27 và sau đó. Thu hẹp khoảng cách từ tham vọng tới hành động sẽ là một bước ngoặt để Châu Á Thái Bình Dương đạt được lợi thế cạnh tranh trong cuộc đua toàn cầu về Net Zero.
Tại COP27 diễn ra trung tuần tháng 11 vừa qua, phái đoàn Việt Nam do Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường Trần Hồng Hà dẫn đầu tham dự Hội nghị, đã tái khẳng định cam kết mạnh mẽ về mục tiêu “Net Zero” vào năm 2050 đã công bố tại COP26. Việt Nam coi vấn đề chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng là chủ trương nhất quán và là mô hình kinh tế mà Việt Nam lựa chọn.
3 nhiệm vụ của phát đoàn Việt Nam tại Hội nghị, là: 1) Việt Nam cùng với các bên tham gia công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu bàn thảo để đưa các cam kết và cơ chế đã được thỏa thuận đi vào thực hiện trên thực tế; 2) Tiếp nối COP26, Việt Nam sẽ tiên phong đi đầu trong chuyển đổi năng lượng, cùng với chuyển đổi xanh và chuyển đổi số: 3) Việt Nam sẽ triển khai nhiều hoạt động song phương với các tổ chức quốc tế đa phương, các doanh nghiệp liên quan chuyển đổi năng lượng, tiếp xúc các thể chế tài chính lớn như Ngân hàng Thế giới và các tổ chức khác.
Trong khuôn khổ COP27, Việt Nam đã có buổi làm việc về thúc đẩy hình thành thị trường carbon tại Việt Nam với Ngân hàng Trung ương Singapore và trao đổi với các đối tác từ các nước G7 và G7 mở rộng, bàn về vấn đề chuyển đổi năng lượng công bằng, giúp Việt Nam tận dụng các cơ hội đặc biệt về tài chính ưu đãi, chuyển giao công nghệ, huy động các nhà đầu tư có năng lực trong lĩnh vực này. Đồng thời đoàn Việt Nam tiếp tục cùng với các nước trên thế giới trao đổi, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để huy động nguồn lực đóng góp từ các nước phát triển. Nguồn lực này cần được phân bổ một cách minh bạch, cân bằng cho các nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng của các quốc gia đang phát triển và kém phát triển.
Từ COP26 đến COP27, Việt Nam được giới quan sát quốc tế đánh giá là đã có nhiều chương trình hành động để thực thi cam kết hướng đến mục tiêu Net Zero vào 2050. Tuy vậy, như TS Muthukumara Mani, Chuyên gia trưởng Kinh tế Môi trường của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam khuyến nghị, trong bối cảnh mới với biến đổi khí hậu, Việt Nam vẫn cần có kế hoạch cụ thể và quyết liệt hơn trong trung và dài hạn. Theo đó, cần tận dụng nguồn lực từ các khu vực ngoài nhà nước, và phải đảm bảo quyền lợi cho nhóm người chịu ảnh hưởng từ quá trình chuyển đổi xanh, đi cùng là cải cách thể chế.
L.M