
Việt Nam đang trên lộ trình xây dựng cơ chế định giá carbon nhằm thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050 và thích ứng với các tiêu chuẩn thương mại xanh quốc tế. Sự dịch chuyển này được kỳ vọng mở ra nguồn lực tài chính mới khi mỗi tín chỉ đại diện việc giảm hoặc loại bỏ 1 tấn CO₂ tương đương (tCO2e).
Theo Nghị định 119/2024/NĐ-CP, từ năm 2025, tín chỉ carbon sẽ trở thành tài sản có giá trị giao dịch trong cơ chế “hạn ngạch và giao dịch” (Cap and Trade). Khi giảm phát thải dưới mức hạn ngạch, doanh nghiệp có thể bán phần dư, tạo thêm doanh thu.
Tại hội thảo về ứng dụng AI trong thực hành ESG và phát triển tín chỉ carbon, diễn ra ngày 25/10, ông Lê Vũ Hoàng Lân, CEO Công ty cổ phần Giải pháp Nền tảng Số Việt Nam (VDS), Chuyên gia Kinh tế xanh và Blockchain Carbon, chia sẻ thị trường này cũng có nhiều rủi ro như tín chỉ chất lượng thấp và gian lận “tẩy xanh” (greenwashing). Do đó, Công ty VDS đã đưa ra một giải pháp là triển khai VNDAX, là sàn giao dịch tài sản số xanh đầu tiên, được xây dựng dựa trên nền tảng công nghệ blockchain.
Theo ông Hoàng Lân, sàn giao dịch này giúp truy xuất nguồn gốc, theo dõi toàn bộ vòng đời, đặc biệt là ngăn chặn gian lận bán hai lần. VNDAX chỉ chấp nhận giao dịch tín chỉ carbon đã được chứng nhận bởi các tiêu chuẩn quốc tế uy tín như Verra, Gold Standard, hướng đến thu hút nhà đầu tư và bảo vệ uy tín thị trường tín chỉ carbon Việt Nam.

Với ngành thép, xi măng, những lĩnh vực đang có đóng góp lớn cho xuất khẩu nhưng lại có phát thải cao, thì sức ép từ các quy định thương mại xanh lại càng lớn. Doanh nghiệp phải minh bạch phát thải nếu không muốn đánh mất lợi thế ở thị trường khó tính.
Ông Hòa Nguyễn, chuyên gia ESG và Năng lượng bền vững, chia sẻ từ ngày 1/1/2026, Liên minh Châu Âu (EU) sẽ triển khai cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), yêu cầu nộp chứng chỉ tương ứng lượng phát thải nhằm ngăn chặn “rò rỉ carbon”, tập trung vào hàng hóa phát thải cao như thép, xi măng và nhôm.
Trong bối cảnh này, mô hình chuyển đổi xanh trong khu công nghiệp được xem là chiến lược vừa giúp giảm phát thải vừa duy trì lợi thế cạnh tranh. Ông dẫn chứng một số mô hình tiêu biểu đang phát huy hiệu quả như khu công nghiệp Amata (Đồng Nai) tái sử dụng 60.000 tấn sinh khối, giảm 16.156 tấn CO₂/năm; khu công nghiệp DEEP C (Hải Phòng) đã tái chế 3.000 tấn phế thải thủy tinh/năm thành vật liệu xây dựng.
Cũng tại hội nghị, ông Nguyễn Văn Tín, Chuyên gia Khí tượng và Biến đổi khí hậu, Đại học Tài Nguyên và Môi trường TPHCM, cho biết phát triển thị trường tín chỉ carbon cũng là một trong những giải pháp quan trọng để đạt mục tiêu giảm 43,5% lượng phát thải so với kịch bản thông thường (BAU) vào năm 2030. Doanh nghiệp có thể bù trừ lượng phát thải thông qua đầu tư vào các dự án trồng rừng, năng lượng tái tạo hay công nghệ hấp thụ CO₂.
Trúc Đào
