
Phát triển đô thị gắn với mục tiêu xanh và thích ứng biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang tạo ra những áp lực ngày càng nặng nề đối với các đô thị Việt Nam. Thực tế này đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc thay đổi mô hình phát triển, hướng tới xây dựng những không gian sống xanh, an toàn và thích ứng với khí hậu.
Để đạt được mục tiêu này, các thành phố buộc phải triển khai các giải pháp đồng bộ từ hoàn thiện chính sách, đổi mới công nghệ, huy động nguồn lực tài chính cho tới nâng cao nhận thức cộng đồng.
Theo các chuyên gia, việc kết hợp các yếu tố trên không chỉ giúp đô thị tăng cường khả năng chống chịu trước rủi ro khí hậu mà còn góp phần kiến tạo một môi trường sống bền vững cho cả hiện tại lẫn các thế hệ tương lai. Việt Nam vì vậy đã và đang tích cực tham gia vào nhiều chương trình hợp tác quốc tế để tiếp cận nguồn lực tài chính, kinh nghiệm quản lý và công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực này.
Trong số đó, một trong những sáng kiến nổi bật là Dự án “Lồng ghép chống chịu biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường để phát triển các đô thị xanh loại II”. Đây là hoạt động hợp tác giữa Bộ Nông nghiệp và Môi trường với Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF), được triển khai thông qua Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
Đô thị loại II thí điểm giải pháp xanh thích ứng khí hậu
Theo Viện Chiến lược, chính sách Nông nghiệp và Môi trường, dự án hướng tới việc tăng cường năng lực thể chế trong công tác bảo vệ môi trường, đồng thời nâng cao khả năng chống chịu trước biến đổi khí hậu, tạo tiền đề cho các đô thị loại II phát triển theo định hướng xanh.
Dự án được thiết kế với bốn hợp phần quan trọng. Thứ nhất là xây dựng khung chính sách quốc gia về bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu. Thứ hai, triển khai thí điểm các giải pháp phát triển đô thị xanh tại ba địa phương. Thứ ba, nghiên cứu và áp dụng các cơ chế tài chính mới để giảm thiểu rủi ro khí hậu. Thứ tư, hỗ trợ các tỉnh, thành phố xây dựng quy hoạch môi trường tổng hợp và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thí điểm được thực hiện tại ba địa phương: Huế, Tuyên Quang (trước đây là TP Hà Giang) và Phú Thọ (trước đây là TP Vĩnh Yên). Tại đây, nhiều hoạt động được triển khai đồng bộ như tổ chức hội thảo, tập huấn nâng cao năng lực, xây dựng các văn bản pháp luật và áp dụng công cụ pháp lý – kỹ thuật.
Dự án còn thử nghiệm quy hoạch hành động phát triển đô thị xanh (GCAP), thúc đẩy mô hình quản lý đô thị thông minh, gắn với phát triển kinh tế tuần hoàn, sản xuất và tiêu dùng bền vững. Đặc biệt, việc thí điểm nhãn sinh thái cho các sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường cũng là một điểm nhấn quan trọng nhằm thay đổi thói quen sản xuất và tiêu dùng.
Ngoài ra, dự án còn xây dựng bộ hướng dẫn đánh giá mức độ dễ bị tổn thương của các đô thị loại II trước biến đổi khí hậu. Song song, hợp phần kiểm kê khí nhà kính được triển khai nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đo đạc, thẩm định lượng phát thải. Đây là bước đi quan trọng giúp doanh nghiệp từng bước thực hiện lộ trình cam kết phát thải ròng bằng “0” mà Việt Nam đã đưa ra trên trường quốc tế.
Không chỉ dừng lại ở việc nâng cao hạ tầng hay ban hành chính sách, dự án còn đặc biệt chú trọng đến khía cạnh truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng. Sự tham gia chủ động của chính quyền, doanh nghiệp và người dân được coi là yếu tố quyết định, tạo nên nền tảng vững chắc để kiến tạo các đô thị xanh loại II – những đô thị vừa chống chịu tốt trước biến đổi khí hậu, vừa mang lại không gian sống an toàn, bền vững.
Trần Huyền