5 lý do cần tăng trưởng xanh
Sáng 26/11, phát biểu tại “Diễn đàn kinh tế xanh: Phát triển kinh tế trong bối cảnh biến đổi khí hậu“, TS. Chử Đức Hoàng – Chánh văn phòng Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ chỉ ra, hiện nay, biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan ngày càng gia tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và phát triển kinh tế – xã hội.
Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu như nước biển dâng, hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn, sạt lở đất… Chính vì vậy, việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu, chuyển đổi sang nền kinh tế xanh bền vững là rất cần thiết.
TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế chỉ ra 5 lý do cần tăng trưởng xanh. Đầu tiên, việc tăng trưởng xanh có mối quan hệ tương quan chặt chẽ giữa môi trường và sức khỏe, nhất là bối cảnh dịch bệnh gia tăng…
Thứ hai, theo World Bank, Việt Nam thuộc 5 quốc gia chịu ảnh hưởng lớn bởi biến đổi khí hậu và thay đổi hệ sinh thái sinh học (tổn thất có thể lên đến 11% GDP vào năm 2100).
Thứ ba, việc tăng trưởng xanh giúp hiệu quả kinh tế – xã hội cao hơn nhiều. Cụ thể, cứ 1 triệu USD đầu tư vào năng lượng tái tạo giúp tăng thêm ít nhất 5 việc làm. Tiếp đó, tăng trưởng xanh giúp tăng năng lực cạnh tranh, hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Và cuối cùng là giúp tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế cũng như doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, các cấp quản lý đã đề ra rất nhiều chương trình, chiến lược, kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh. Tính đến hết tháng 9/2024, dư nợ tín dụng xanh đạt 665.000 tỷ đồng, chiếm tỉ trọng khoảng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tăng hơn 7% so với cuối năm 2023.
Dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt 3,2 triệu tỷ đồng, chiếm hơn 22% tổng dư nợ hệ thống TCTD và tăng 15,6% so với cuối năm 2023.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức đặt ra đối với tăng trưởng xanh. Đó là chưa có các sản phẩm tài chính xanh đặc thù. Chưa có khung pháp lý, chính sách tổng thể, nhất quán liên quan đến tài chính xanh như quy định về phân loại xanh và xác nhận dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh…
Việc thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường, xã hội còn gặp nhiều khó khăn do đội ngũ chuyên gia, nhân sự trong lĩnh vực này tại Việt Nam còn khá hạn chế.
Thiếu cơ chế phối hợp và ưu đãi cho các hoạt động tài chính xanh như ưu đãi thuế, phí; về hạn mức tín dụng; về lãi suất…
Các dự án xanh thường có thời hạn dài (có thể lên đến 20 năm), chi phí đầu tư lớn, trong khi các nguồn vốn cho vay của các TCTD thường là vốn huy động ngắn, trung hạn.
Đồng thời, nhận thức của thị trường đối với ESG, tài chính xanh và bền vững chưa cao và chưa đồng đều. Nhiều công ty niêm yết chưa có sự chủ động trong việc đưa ESG vào định hướng kinh doanh và quản trị doanh nghiệp; việc phát hành cổ phiếu xanh hầu như chưa có và báo cáo phát triển bền vững còn hạn chế.
TS. Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) nhận định về khó khăn đối với thị trường tài chính xanh tại Việt Nam đó là nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ về các cơ chế, chính sách hỗ trợ. Nhà đầu tư hạn chế thông tin về các sản phẩm tài chính xanh.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ còn khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn xanh. Thiếu các tiêu chuẩn rõ ràng và thống nhất về dự án xanh, trái phiếu xanh. Bên cạnh đó, việc đánh giá rủi ro môi trường và xã hội của các dự án xanh chưa được thực hiện đầy đủ và hiệu quả.
Cần đẩy mạnh ứng dụng và chuyển giao các công nghệ xanh
Đưa ra khuyến nghị giải pháp thúc đẩy tăng trưởng xanh, ông Việt chỉ ra, cần xây dựng các cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Phát triển thị trường các sản phẩm tài chính xanh. Xây dựng khung pháp lý rõ ràng, minh bạch và thống nhất về tài chính xanh. Thiết lập một cơ chế giám sát hiệu quả để đảm bảo các dự án xanh được thực hiện đúng mục tiêu.
Ngoài ra, theo ông Chử Đức Hoàng, cần đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ xanh, thân thiện môi trường để hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững.
Ông Hoàng chỉ ra, công nghệ năng lượng tái tạo góp phần đạt mục tiêu về năng lượng sạch. Tại Việt Nam, công suất điện gió, điện mặt trời đã tăng 16 lần trong 2 năm 2019 – 2020, chiếm 25% tổng công suất lắp đặt.
Công nghệ lọc nước tiên tiến góp phần đạt mục tiêu về nước sạch và vệ sinh. Việt Nam là một trong số ít quốc gia hoàn thành sớm mục tiêu về nước sạch với 95,4% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh (2025).
“Tuy nhiên, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp trong việc thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ xanh”, ông Hoàng nói.
Về phía ông Cấn Văn Lực, vị chuyên gia đưa ra các nhóm giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng xanh tại Việt Nam. Trong đó nhấn mạnh việc Chính phủ cần sớm ban hành Danh mục “phân loại xanh”, trong đó nên có xác định lĩnh vực, ngành nghề ưu tiên; giao tổ chức độc lập “xác nhận” xanh. Đồng thời có các cơ chế, tiêu chí, phương thức đánh giá tác động môi trường (tiêu chí “dự án, công trình, nhà máy xanh…
Ban hành chính sách định hướng thay đổi hành vi, nhất là tiêu dùng, sinh hoạt; đầu tư “xanh” (năng lượng tái tạo, công nghệ khai khoáng….). Khuyến khích, hỗ trợ đổi mới sáng tạo như xe điện, xe tiết kiệm năng lượng…
Ngoài ra cũng cần hỗ trợ tài chính về thuế, phí, lãi suất, gồm cả chi phí xác nhận xanh (nếu có) cho các sản phẩm, dịch vụ “xanh”.
Cần nghiên cứu thành lập các quỹ như quỹ chuyển đổi xanh, quỹ tăng trưởng xanh… Sớm thành lập thị trường tín chỉ Carbon. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tham gia quá trình xanh hóa bao gồm cả cơ quan quản lý, nhà đầu tư/nhà băng, nhà trường…
Về phía các tổ chức tín dụng, cần xây dựng quy trình thẩm định dành riêng cho tín dụng xanh, có sản phẩm, dịch vụ phù hợp đối với các lĩnh vực khác nhau và tư vấn ESG cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó cũng cần tăng cường nâng cao nhận thức, đào tạo cán bộ về những lĩnh vực như ESG, năng lượng tái tạo, sản xuất, tiêu dùng xanh… để các hoạt động thẩm định, thiết kế sản phẩm và quản lý rủi ro được thực hiện phù hợp và hiệu quả hơn.
Nguyễn Thị Thu Hương