
Thí điểm sàn giao dịch carbon từ tháng 6
Chia sẻ tại Diễn đàn thị trường carbon Việt Nam 2025, ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết cơ quan này đang nghiên cứu, đánh giá các tác động của thị trường carbon tới nền kinh tế Việt Nam. Đồng thời phối hợp với các bộ (như Công Thương, Xây dựng…), để xây dựng trình Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phân bổ hạn ngạch khí nhà kính giai đoạn đầu dự kiến cho hơn 100 doanh nghiệp phát thải lớn trong một số lĩnh vực.
Sàn giao dịch carbon Việt Nam dự kiến vận hành vào tháng 6, là công cụ khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi xanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) của Việt Nam vào 2050.
Hai loại hàng hóa chính trên sàn giao dịch này là hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon. Tín chỉ carbon (carbon credit) là một loại giấy phép hoặc chứng chỉ có thể giao dịch, có giá trị mua bán và cung cấp cho người nắm giữ tín chỉ quyền phát thải một tấn CO2 hoặc loại khí thải khác nằm trong danh sách khí thải nhà kính.
Theo lộ trình, sàn giao dịch carbon Việt Nam thí điểm trong 3 năm (đến 2028), sau đó đi vào vận hành chính thức. “Thị trường carbon châu Âu, Trung Quốc, Hàn Quốc đã đi trước. Chúng ta sẽ bắt nhịp, tiến tới kết nối với sàn quốc tế”, Cục trưởng Biến đổi khí hậu nói.
Thông tin thêm, ông Cường cho hay Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã trình Chính phủ bộ tiêu chí phân loại xanh. Khi bộ tiêu chí này được ban hành, các ngân hàng sẽ có cơ sở để cho vay các dự án xanh và các tổ chức cá nhân có cơ sở tiếp cận các chương trình tín dụng xanh. Việt Nam cũng đặt mục tiêu sớm phát triển thị trường carbon để hỗ trợ giảm phát thải, hỗ trợ để các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi toàn cầu, đó là xu thế chung của thế giới.
Theo ông Cường, công cụ định giá carbon trên thế giới hiện nay phổ biến được áp dụng là thuế carbon, hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính, cơ chế tín chỉ carbon.
Trên thế giới hiện có khoảng 90 quốc gia, vùng lãnh thổ áp dụng khoảng 110 công cụ định giá carbon. Mức độ tham gia thị trường carbon rất lớn, tính riêng trong năm 2024, các công cụ định giá carbon này đã kiểm soát hơn 12,8 tỉ tấn CO2 tương đương, chiếm 24% tổng phát thải khí nhà kính toàn cầu.
Việt Nam đã xác định áp dụng công cụ định giá carbon, cụ thể là thị trường carbon tuân thủ nhằm hỗ trợ mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính. Thị trường carbon tại Việt Nam được phát triển sẽ góp phần thực hiện mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính quốc gia với chi phí thấp của doanh nghiệp và xã hội, thúc đẩy phát triển công nghệ phát thải thấp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, hướng tới phát triển nền kinh tế carbon thấp.
Về mặt thể chế, đại diện Cục Biến đổi khí hậu cho biết Việt Nam đã có Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trong đó đã có quy định về tổ chức và phát triển thị trường carbon. “Bước tiến lớn so với Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 trước đây, là Luật năm 2020 đã tiếp cận từ nâu sang chuyển đổi xanh. Các tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường của chúng ta đã ban hành trong các hướng dẫn thực thi Luật Bảo vệ môi trường, đã tiếp cận những tiêu chuẩn của những nước tiên tiến trên thế giới như các nước châu Âu, như Hàn Quốc, Nhật Bản…”, ông Cường nêu.

Doanh nghiệp vẫn loay hoay
Tại diễn đàn, bà Phạm Liên Anh, Trưởng nhóm Tư vấn và Nghiên cứu Kinh tế Khu vực Mekong của IFC cũng cho biết kết quả khảo sát do đơn vị thực hiện cho thấy, các mục tiêu môi trường và sự chuẩn bị cho thị trường carbon trong nước đang là động lực chính thúc đẩy doanh nghiệp giảm phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, hạn chế về nguồn tài chính và khoảng trống kiến thức vẫn là những trở ngại lớn trong việc áp dụng các biện pháp giảm phát thải.
Mặc dù nhiều doanh nghiệp đã có nỗ lực trong việc cắt giảm phát thải, nhưng chỉ một số đơn vị thực hiện đo lường mức độ giảm, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất lúa gạo. Điều này cho thấy nhu cầu cấp thiết trong việc nâng cao năng lực cho ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lúa.
Khảo sát cũng ghi nhận, các doanh nghiệp thuộc 4 ngành gồm thực phẩm và đồ uống (F&B), chăn nuôi, quản lý chất thải và sản xuất lúa gạo đã bước đầu nhận thức và áp dụng một số biện pháp giảm phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng tham gia thị trường carbon tự nguyện (VCM) còn chênh lệch đáng kể giữa các ngành.
Trong đó, các doanh nghiệp ngành F&B thể hiện mức độ sẵn sàng cao nhất, tiếp theo là ngành chăn nuôi. Ngành quản lý chất thải có mức độ sẵn sàng trung bình, trong khi sản xuất lúa gạo đứng ở mức thấp nhất.
Một yếu tố ảnh hưởng lớn đến mức độ sẵn sàng tham gia thị trường VCM là các quy định gần đây yêu cầu doanh nghiệp kiểm kê khí nhà kính, đặc biệt đối với những đơn vị có lượng phát thải lớn trong ngành F&B và quản lý chất thải.
Theo đại diện IFC, dù phần lớn doanh nghiệp tham gia khảo sát là các đơn vị quy mô lớn và có điều kiện thuận lợi để tiếp cận các thông lệ phát triển bền vững, nhưng năng lực thực hiện kiểm kê khí nhà kính và hệ thống đo lường, báo cáo, thẩm tra (MRV) vẫn còn hạn chế.
“Thực tế này cho thấy, nếu ngay cả các doanh nghiệp lớn còn gặp khó khăn trong việc tham gia thị trường carbon, thì khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp nhỏ sẽ càng hạn chế hơn”, bà Phạm Liên Anh nhấn mạnh.
Bà Võ Hoàng Nga, Giám đốc ESG của Công ty Cổ phần Thành Thành Công – Biên Hòa (TTC AgriS), cho biết doanh nghiệp đã bắt đầu tham gia vào lộ trình giảm phát thải khí nhà kính từ 10 năm trước, với định hướng tiến tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero). Một trong những thuận lợi là doanh nghiệp đã đầu tư công nghệ sản xuất phân hữu cơ từ sớm. Tuy nhiên, bà Nga cũng cho hay quá trình triển khai của doanh nghiệp này vẫn gặp nhiều thách thức, đặc biệt là việc tuân thủ các tiêu chí kỹ thuật, trong đó có những khâu vẫn phải thực hiện thủ công như thu gom chất thải, dẫn đến chi phí tăng cao.
Bên cạnh đó, thủ tục đăng ký dự án để phát hành tín chỉ carbon hiện mất nhiều thời gian và chi phí. Theo bà Nga, trung bình mỗi dự án cần 2–3 năm để hoàn tất quy trình, thậm chí có trường hợp kéo dài tới 4 năm.
Theo bà Elvira Morella, Giám đốc Bộ phận Tư vấn và Nghiên cứu Kinh tế, khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, IFC, để vận hành thị trường carbon hiệu quả, trước hết, phải bảo đảm tính toàn vẹn môi trường thông qua xây dựng và triển khai hệ thống MRV (các bước về mặt kỹ thuật và quy trình để đo đếm, báo cáo, thẩm định lượng phát thải khí nhà kính) bảo đảm chặt chẽ và hiệu quả, thực tiễn.
Cùng với đó, xây dựng khuôn khổ pháp lý rõ ràng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế tạo niềm tin cho thị trường và thu hút sự tham gia; nâng cao năng lực cũng như thúc đẩy sự tham gia của các bên liên quan đảm bảo tất cả các bên tham gia hiểu rõ cơ chế vận hành của thị trường và vai trò của mình trong đó.
Thành Nhân