
Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển (CODE), Việt Nam đang là một trong những quốc gia có tốc độ phát thải khí nhà kính tăng nhanh nhất thế giới. Đây là điều điều đáng báo động trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt.
“Giảm phát thải khí nhà kính không còn là lựa chọn, mà là mệnh lệnh sống còn của nhân loại” – ông nhấn mạnh.
Dù vậy, theo TS. Nghĩa, điều đáng mừng là cam kết Net Zero đến năm 2050 không chỉ được thể hiện trên nghị trường quốc tế, mà đã bắt đầu thấm vào hành động cụ thể ở từng địa phương, từng cộng đồng, từng cánh rừng và thửa ruộng. Và hành trình ấy đang chứng kiến những mô hình tiên phong đầy cảm hứng – từ rừng sản xuất tại xã Cao Quảng (nay là xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình) đến hệ sinh thái lúa – tôm ở Cà Mau.
Rừng Cao Quảng: Khi “rừng vàng” thực sự sinh lợi cho người dân
Rừng Cao Quảng trước đây thuộc xã Cao Quảng (cũ), nay là xã Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình là một ví dụ điển hình cho mô hình quản trị rừng cộng đồng gắn với tín chỉ carbon. Với hơn 10.000 ha đất lâm nghiệp, trong đó có hơn 9.000 ha rừng sản xuất là rừng tự nhiên, Cao Quảng từng đối mặt với tình trạng tranh chấp ranh giới rừng, khai thác kém hiệu quả và mất dần hệ sinh thái.
Nhưng bước ngoặt lớn bắt đầu từ năm 2018, khi xã triển khai phân định ranh giới rừng cho từng hộ dân, xây dựng vườn ươm cây bản địa và thành lập các nhóm chủ rừng. Theo ông Nguyễn Quang Huy – Chủ tịch HĐQT Hợp tác xã Lâm nghiệp cộng đồng Cao Quảng: “Chỉ khi người dân thực sự trở thành chủ rừng, họ mới có động lực giữ rừng và làm giàu từ rừng. Rừng vàng, biển bạc là có thật – và chúng tôi đang chứng minh điều đó mỗi ngày”.
Ông Huy cho biết, từ năm 2023 đến nay, các chủ rừng Cao Quảng đã được hưởng lợi từ nguồn Thỏa thuận giảm phát thải khí nhà kính 06 tỉnh Bắc Trung Bộ (Nguồn tài chính từ Ngân hàng ERPA chi trả cho Chính phủ về việc mua tín chỉ carbon rừng của 6 tỉnh Bắc Trung Bộ); và nguồn từ ngân sách nhà nước bảo vệ rừng trong thời gian đóng cửa rừng. Trong 3 năm gần đây, bình quân mỗi năm các chủ rừng Cao Quảng được nhận gần 3 tỷ đồng.
Năm 2025 này, Cao Quảng nhận được gần 4 tỷ đồng từ tiền chi trả dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng từ FCPF và các nguồn bảo vệ rừng khác. Đây là nguồn thu nhập tăng thêm rất có ý nghĩa đối với một xã vùng cao chủ yếu sống dựa vào nông – lâm nghiệp.
Đặc biệt, nhờ cách làm bài bản và đồng thuận cao trong cộng đồng, hơn 85% diện tích rừng của xã hiện đã được bảo vệ và khai thác bền vững. Các nhóm chủ rừng được tổ chức theo cụm, tự tuần tra, báo cháy và phối hợp với kiểm lâm. Các diện tích giáp ranh trước kia dễ bị xâm lấn nay cũng đã được quản lý tốt hơn.
Ông Huy cũng thẳng thắn đề nghị: “Chính phủ cần hoàn thiện cơ chế để các chủ rừng như chúng tôi được tham gia thị trường carbon theo Nghị định 06 và Quyết định 232, để người dân được hưởng lợi từ tài nguyên rừng thay vì nằm trong tay những đơn vị không khai thác.”
Gạo ST25 và hành trình giảm phát thải từ cánh đồng lúa – tôm
Nếu như Cao Quảng thể hiện con đường Net Zero từ rừng, thì kỹ sư Hồ Quang Cua – cha đẻ của giống gạo ST25 – đang viết tiếp câu chuyện này trên cánh đồng ven biển Cà Mau, nơi kết hợp canh tác lúa – tôm đã trở thành chiến lược sinh kế bền vững và giảm phát thải rõ rệt.

Từ năm 2020, ông Cua cùng cộng sự bắt đầu triển khai trồng giống lúa ST24, ST25 trên hàng ngàn hecta vùng tôm – lúa ở các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang. Họ áp dụng mô hình nông nghiệp tuần hoàn với kỹ thuật “rút khô giữa mùa và cuối mùa” – giúp tăng sinh khối vi sinh vật, phân hủy rơm rạ tự nhiên và giảm phát thải khí nhà kính.
“Giải pháp này đã giúp chi phí thu hoạch giảm 75% nhờ cơ giới hóa, năng suất tăng lên 6 tấn/ha, giá bán đạt 9.200 đồng/kg – gấp rưỡi lúa thường.
Song song đó với giống lúa ST24 và ST25, lợi thế của vùng đất tự nhiên có nhiều gió biển trong lành và những mô hình ứng dụng phân hữu cơ, vi sinh vật vào ruộng lúa do chúng tôi thực hiện đã biến vùng Lúa – Tôm rộng lớn hàng trăm ngàn hecta thành vùng lúa giảm phát thải khí nhà kính cao bậc nhất ở nước ta” – ông Cua cho biết.
Đặc biệt, sản xuất tuần hoàn còn nâng cao chất lượng gạo – thơm ngon, sạch hóa chất – đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu và phù hợp với định hướng phát triển 1 triệu ha lúa chất lượng cao – phát thải thấp của Chính phủ đến năm 2030.
Trên quy mô 100.000 ha, theo tính toán của ông Cua, mô hình này có thể mang lại lợi nhuận tăng thêm tới 1.800 tỷ đồng mỗi năm cho nông dân đồng bằng sông Cửu Long. Quan trọng hơn, nó góp phần giảm phát thải khí nhà kính và tạo thương hiệu lúa gạo Việt Nam gắn với Net Zero – điều mà nhiều quốc gia nhập khẩu gạo đang đặc biệt quan tâm.
Không chỉ là cam kết, mà là hành động cụ thể
Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, thế giới đã bước vào giai đoạn không thể trì hoãn trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Ông nhấn mạnh:
“Những ai phản đối Net Zero không phải vì không thấy hiểm họa, mà vì động cơ ích kỷ. Trong khi đó, doanh nghiệp quốc tế, kể cả ở Mỹ, vẫn bắt buộc báo cáo phát thải và phát triển bền vững để được tồn tại trong chuỗi cung ứng toàn cầu.”
Việt Nam hiện đã ban hành Chỉ thị yêu cầu hơn 2.000 doanh nghiệp phải thực hiện báo cáo phát thải khí nhà kính. Ngành hàng không cũng chuẩn bị nộp thuế carbon từ 2027. Và điều quan trọng là những mô hình như Cao Quảng hay ST25 không chỉ đáp ứng yêu cầu pháp lý, mà còn mở ra những con đường sinh kế xanh, hiệu quả và đầy cảm hứng.
Từ rừng đến ruộng, Net Zero ở Việt Nam không còn là khái niệm xa vời. Nó đang được hiện thực hóa bằng những câu chuyện có thật – từ bàn tay của người nông dân, bằng sự đồng hành của cộng đồng, và bằng chính trách nhiệm của từng tấc đất rừng, từng hạt lúa thơm.
Thiên Ân