Hội nghị COP28 diễn ra vào 30/11/2023 tại UAE được nhận định mang đến nhiều cơ hội thiết lập và cải thiện quan hệ đối tác giữa các nền kinh tế phát triển thuộc OECD và các thị trường mới nổi ở Đông Nam Á.
Tại hội nghị COP26, thời điểm khi mà tất cả các bên đã đồng thuận tái kiểm tra và củng cố kế hoạch biến đổi khí hậu để đáp ứng Hiệp định Paris. 8 trong số 10 quốc gia ASEAN đã đặt ra những mục tiêu giảm khí thải đầy hoài bão, như tăng cường mục tiêu giảm thải trong thời kỳ ngắn hạn đến năm 2030 hoặc rút ngắn kế hoạch đạt tới khí thải gần như bằng không (net zero) từ năm 2060 xuống còn 2050.
Những năm qua đã chỉ ra rằng chi phí khởi đầu cho cơ sở hạ tầng năng lượng sạch là đáng kể, đem đến thực tế là khu vực này không thể tự mình thực hiện được – Đông Nam Á cần sự hỗ trợ từ các lĩnh vực tư và công, cả trong và ngoài khu vực. Nhu cầu này làm tăng tính cấp bách cho các cuộc thảo luận và kết quả tại COP28 lần này.
Thời điểm hội nghị COP26 cũng là lúc Liên minh Năng lượng Toàn cầu cho con người và Hành tinh (GEAPP) ra đời nhằm hỗ trợ thực hiện mục tiêu chung của kế hoạch, bao gồm khu vực ASEAN.
Hợp tác chống biến đổi khí hậu
Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng là một trong những khu vực dễ bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu, với nhiều cụm đảo và bờ biển rộng lớn, và nhu cầu năng lượng dự kiến sẽ tăng gấp ba lần vào năm 2050. Điều này dẫn tới sự đòi hỏi về những giải pháp công nghệ sáng tạo và chi phí phải hợp lý để tăng tốc quá trình giảm khí nhà kính.
Mặc dù các chính phủ ở Đông Nam Á phần lớn ủng hộ các dự án bền vững, nhưng họ thường gặp khó khăn về việc thiếu nguồn vốn và chuyên môn để phát triển các dự án này với tốc độ mà cam kết của họ đòi hỏi. Trong khi đó, các khung pháp luật và khuyến khích đối với nguồn năng lượng tái tạo khác nhau trên khắp khu vực và liên tục thay đổi, tạo ra thách thức đối với các nhà đầu tư.
“Hoạt động kinh doanh tiêu chuẩn” trong lĩnh vực năng lượng thường yêu cầu triển khai các giải pháp năng lượng chi phí thấp và ổn định, thường sử dụng năng lượng hoá thạch. Chính vì điều này, lượng khí thải từ khu vực Đông Nam Á đã làm tăng tổng lượng CO2 toàn cầu lên gấp đôi từ năm 1990 đến năm 2020, tăng nhanh hơn từ năm 1990 đến năm 2010 so với các khu vực khác trên thế giới. Mặc dù điều này phản ánh sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, nhưng nó đồng thời gây nên tác động trong dài hạn.
Nếu nhiệt độ tăng ở Đông Nam Á, thiên tai sẽ trở nên phổ biến và nghiêm trọng hơn, sản lượng nông nghiệp và thủy sản sẽ giảm, các căn bệnh nhiệt đới sẽ trở nên phổ biến hơn, kết quả sức khỏe sẽ giảm sút, năng suất sẽ giảm và ngành du lịch sẽ chịu tổn thất lớn.
Tại Việt Nam, IPCC cho rằng, khi mực nước biển dâng lên 100cm, diện tích đất bị mất đi của Việt Nam sẽ lên tới 40.000km2, chiếm 12,1% tổng diện tích đất hiện có, kéo theo hệ quả khiến hàng triệu người sẽ mất đi nơi sinh sống. GEAPP nhận thức về sự yếu đuối này và nhận ra sự cần thiết khẩn cấp trong việc đối mặt với biến đổi khí hậu trong khu vực này.
Bà Kitty Bu cho rằng: “Đây là thời điểm quan trọng để thế giới đồng lòng giúp đỡ Đông Nam Á chuyển sang năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, những thị trường này đòi hỏi nguồn vốn hỗ trợ để đặt nền móng cho sự phát triển hơn nữa“.
Nhu cầu về nguồn vốn hỗ trợ xúc tác
Chính phủ Việt Nam đã đưa ra những chiến lược trong Quy hoạch điện VIII. Trong đó, mục tiêu đến năm 2023, tỷ trọng năng lượng tái tạo tăng lên 47%, và hệ thống pin dự trữ dự kiến đạt công suất khoảng 300 MW, chiếm 0,2% cơ cấu nguồn điện nếu các nguồn hỗ trợ quốc tế được triển khai đầy đủ.
Nguồn vốn hỗ trợ có thể cung cấp vốn mục tiêu, xây dựng năng lực, chia sẻ kiến thức, hỗ trợ kỹ thuật, nghiên cứu và đánh giá tác động cần thiết để tăng tốc cho sự phát triển xanh của Đông Nam Á, đồng thời vượt qua các rào cản phức tạp. Các tổ chức quốc tế có thể hợp tác với Cơ quan Quản lý của chính phủ và các công ty năng lượng – cả khối tư và công – để tạo ra các dự án thử nghiệm và cung cấp nguồn vốn khởi đầu cho phép chính phủ và doanh nghiệp đầu tư vào các dự án mới với sự giảm thiểu về rủi ro.
Nguồn vốn hỗ trợ thường có tỉ lệ chấp nhận rủi ro cao và do đó đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích các giải pháp bền vững từ cấp cơ sở, cụ thể là bằng cách sử dụng tài chính kết hợp để cho phép các bên có mục tiêu khác nhau đầu tư cùng nhau. Tài chính kết hợp cho phép đưa nguồn vốn thông qua các ngân hàng phát triển và tổ chức hỗ trợ để điền vào khoảng trống giữa nhu cầu tài trợ của một dự án và nguồn vốn có sẵn. Ở giai đoạn đầu, các dự án này có thể không thương mại hóa ngay được, nhưng chúng có tiềm năng lâu dài để đóng góp thực sự cho sự phát triển bền vững, tạo ra lợi nhuận tài chính tích cực, và mở khóa vốn bổ sung bằng cách thu hút thêm nhà đầu tư.
Các lựa chọn tài chính khác nằm trong mô hình cấp vốn hỗ trợ bao gồm hình thức bảo đảm và bảo hiểm rủi ro. Trong những trường hợp này, vốn khởi đầu được triển khai trước hoặc sau khi đầu tư để tránh mất mát hoặc cung cấp tăng cường tín dụng, từ đó đảm bảo khả năng thương mại của một dự án mà không kỳ vọng về sự trả nợ.
“Những nỗ lực của GEAPP cho đến nay cung cấp một ví dụ để thực hiện theo. Chúng tôi đã cam kết nguồn vốn giá trị 360 triệu USD kể từ khi thành lập cho việc xây dựng năng lực, áp dụng những đổi mới và vốn rủi ro, và chúng tôi đã tăng danh mục đầu tư chung lên 11,5 tỷ USD. Những đầu tư này đã đạt được kết quả tích cực ban đầu, với hơn 245.000 điểm kết nối năng lượng mới hoặc được nâng cấp, hơn 1 triệu người được hưởng lợi, 25MW năng lượng tái tạo được kích hoạt và 117.000 tấn CO2 được giảm thiểu“, bà Kitty Bu nói.
Tiềm năng xanh của Đông Nam Á và Việt Nam
Tháng 3 năm 2023, GEAPP đã ký kết Hiệp định với Bộ Năng lượng và Khoáng sản Indonesia để tạo lập một lộ trình ngừng hoạt động khai thác than đá. Chúng tôi cũng đã hỗ trợ chính phủ trong việc tổ chức Ban Thư ký JETP và cung cấp sự hỗ trợ về khả năng triển khai.
Tại Việt Nam, GEAPP đã ký kết những Biên bản ghi nhớ qua ba bộ ngành để hợp tác đạt được mục tiêu chung của Việt Nam về nỗ lực chuyển đổi năng lượng và cam kết đạt mức khí thải net zero vào năm 2050.
“Chúng tôi cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và tài chính để giúp Việt Nam bước khỏi việc phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch bằng cách phát triển nguồn năng lượng tái tạo của mình. Trong quá trình này, chúng tôi đang xây dựng sự thống nhất dựa trên sự đồng thuận để triển khai mô hình thử nghiệm của Việt Nam về hệ thống lưu trữ năng lượng bằng pin (BESS) kết nối lưới điện·đầu tiên, và hỗ trợ việc triển khai năng lượng mặt trời trên mái nhà và điện gió ngoài khơi thông qua một dòng tín dụng xanh”, bà Kitty Bu cho hay.
Tháng 7 vừa qua, văn phòng Chính phủ vừa có Văn bản số 5006/VPCP-CN ngày 6/7/2023 truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà về đề xuất có chính sách phát triển hệ thống pin trữ điện tái tạo. Đây là tín hiệu tích cực cho thấy sự rộng mở của Chính phủ trong việc tiếp thu những ý tưởng mới.
Kể từ COP26, Đông Nam Á đã bắt đầu xây dựng danh tiếng là một điểm sáng của sự tham vọng và sáng tạo trong cuộc theo đuổi thế giới tương lai bền vững. Các tổ chức và các nhà đầu tư toàn cầu có một cơ hội hiếm có để hợp nhất với chính phủ địa phương trong việc cùng tập trung vào những lợi ích dài hạn của đầu tư xanh, năng lượng tái tạo và tài chính kết hợp để có thể thúc đẩy khu vực phát triển bằng cách biến nó thành một nền kinh tế xanh bền vững. Bây giờ, hơn bao giờ hết, sự tham gia tích cực và sự hợp tác tại COP28 đóng vai trò quan trọng để đạt được mục tiêu này.
Đã đến lúc chúng ta đoàn kết nhau để thúc đẩy sự thay đổi bền vững ở Đông Nam Á và trên toàn thế giới. Bằng cách làm việc cùng nhau, chúng ta có thể tạo ra một ảnh hưởng lớn, kích thích sự thay đổi chuyển đổi khắp khu vực.
Quỹ Liên minh Năng lượng Toàn cầu vì Con người và Hành tinh (GEAPP) lần đầu tiên ra mắt tại COP26 nhằm thúc đẩy đầu tư vào chuyển đổi năng lượng xanh và các giải pháp năng lượng tái tạo ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi trên toàn thế giới.
Thu Hường